Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kệ Chú Tắm Phật

06 Tháng Năm 202008:08(Xem: 4650)
Kệ Chú Tắm Phật

Kệ Chú Tắm Phật


 Quảng Minh

Kệ Chú Tắm Phật

Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài, cùng lúc ấy, chư thiên tung hoa trời, trổi nhạc trời chúc mừng thái tửTắm Phậtnghi thức tưới nước thơm lên tượng Phật sơ sinh, ngoài mục đích kỷ niệm đức Phật đản sinh còn mang ý nghĩa sâu sắc về sự tẩy trừ phiền não, hướng đến sự thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý của con người.

          Nghi thức tắm Phật đã có từ xa xưa ở Ấn Độ, các tự viện thường thực hiện nghi lễ tắm Phật như một nhu cầu cần thiết để cầu phước diệt tội.  Khi tiến hành lễ tắm Phật, bài kệ tắm Phật được xướng tụng là:

Ngã kim quán mộc chư Như Lai
Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ
Ngũ trược chúng sanh lịnh ly cấu
Đồng chứng Như Lai tịnh pháp thân.[1]
Tỳ-la thành lý bất tằng sinh
Sa-la thọ gian bất tằng diệt
Bất sanh bất diệt lão Cù-đàm
Nhãn trung khán kiến trùng thiêm tiết. [2]
Kim triêu chính thị tứ nguyệt bát
Tịnh Phạn vương cung sinh Tất-đạt
Phún thủy cửu long thiên ngoại lai
Bỗng túc liên hoa tùng địa phát.[3]
Án, mâu-ni, mâu-ni, tam-mâu-ni, tát bà ha.[4]

我今灌沐諸如來

淨智功德莊嚴聚

五濁眾生令離垢

同證如來淨法身。

毘羅城裏不曾生

娑羅樹間不曾滅

不生不滅老瞿曇

眼中看見重添屑。

今朝正是四月八

淨飯王宮生悉達

九龍天外來

棒足蓮花隨地發。

唵,牟尼,牟尼,三牟尼,薩婆訶。

 

Dịch nghĩa: 

Con nay rưới tắm các Như Lai
Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ
Chúng sanh năm trược rời dơ bẩn
Cùng chứng Như Lai tịnh pháp thân.
Trong thành Tỳ-la chưa từng sinh
Giữa cây Sa-la chưa từng diệt
Bất sinh bất diệt đức Cù-đàm
Lấy mắt nhìn xem càng thêm bụi.
Sáng nay ngày mùng tám tháng tư
Tịnh Phạn vương cung sinh Tất-đạt
Chín rồng phun nước ngoài trời đến
Hoa sen đỡ bước theo đất mọc.
Án mâu-ni, mâu-ni, tam-mâu-ni, tát bà ha.

Bốn câu đầu là bài kệ tắm Phật trong kinh Phật Thuyết Dục Tượng Công Đức[5], theo đó dịch sát là:  Nay con rưới tắm thân của các đức Như Lai, thân ấy là khối công đức được trang nghiêm bởi trí tuệ thanh tịnh, cầu nguyện chúng sanh ở trong giai đoạn đầy năm thứ vẩn đục[6] mong họ thoát ly mọi thứ dơ bẩn, cùng chứng pháp thân thanh tịnh của Như Lai.

Nói về Như Lai là phải nói đến phước trí nhị nghiêm.  Để chứng đắc địa vị Phật đà, chư vị bồ tát phải tích tụ hai thứ tư lương phước đứctrí tuệ, trải qua ba A tăng kỳ kiếp, bằng sự tu tập trí tuệ vô phân biệt, thông đạt pháp tánh viên minh, thuận phần chân như thanh tịnh.  Chư vị bồ tát còn cụ bị đại bi, đại nguyện, đại tinh tấn trong việc hóa độ chúng sanh, nhất là chúng sanh bị năm thứ vẩn đục vây quanh.  Bồ tát hóa độ chúng sanh bằng mọi phương tiện thiện xảocứu cánh là mong chúng sanh diệt được tất cả mê hoặc, cùng chứng đắc pháp thân thanh tịnh của Như LaiPháp thân của Như lai thì thường trú bất diệt, biến khắp pháp giới, thanh tịnh bản tịch, ứng hiện không có thêm bớt, tùy thuận niết bàn sinh tử.

Bốn câu kế tiếp là nói pháp thân thanh tịnh của Như Lai thì bất sinh bất diệt. Cách đây hơn 25 thế kỷ, vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch, tại nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu) miền trung Ấn Độ, bồ tát Hộ Minh đã giáng trần, qua hiện thân thái tử Tất-đạt-đa Cù-đàm (Siddhartha Gautama), con của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Maya. Ngài đã vì lòng từ bi, vì sự an lạc, hạnh phúc, giải thoát cho chúng sanh, nên xuất hiệncõi Ta bà nầy. Về sau Ngài xuất gia, tu hànhthành đạo dưới cội Bồ-đề hiệu là Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), trở thành giáo chủ trong ba cõi, bậc thầy của chư thiênloài người.  Qua 49 năm thuyết pháp độ sanh, ngài đã để lại cho nhân loại một kho tàng giáo lý vô tận, những quy luật đạo đức cao siêu, để hướng dẫn con người hướng thiện và giải thoát.  Trong cánh rừng Sala, phía nam thành phố Câu-thi-na (Kusinagara), vào một đêm rất tối và tĩnh mịch, Đức Phật nằm nghiêng bên phải, hướng về phía tây và dần nhập niết bàn, một trạng huống tánh tịnh vô trú.  

Trước hết cần phải hiểu đạo lý sinh diệt.  Sinh là biểu hiện, diệt là kết thúc.  Sự kết thúc của giai đoạn này là sự biểu hiện của giai đoạn kế tiếp.  Như vậy sinh diệt tiếp nối tương tục, sinh là diệt, diệt là sinh, do đó sinh không thật sinh, diệt không thật diệt.  Sinh không thật sinh nên gọi là bất sinh, diệt không thật diệt nên gọi là bất diệtNghĩa lý bất sinh bất diệt nằm trong sinh diệtĐức Phậtba thântự tánh thân, thọ dụng thânbiến hóa thânTự tánh thân là pháp thân thanh tịnh, tự tại trong các pháp.  Thọ dụng thân là thân Phật trong đại tập hội của chư Phật gồm toàn chư vị bồ tátBiến hóa thân là thân Phật từ cung trời Đâu Suất, thị hiện ẩn mất, rồi thọ sinh, thọ dục, vượt thành xuất gia, đến chỗ ngoại đạo, tu hành khổ hạnh, chứng đại bồ đề, chuyển đại pháp luân, nhập niết bàn vô trú.  Ở góc độ đạo lý sinh diệt thì sự giáng sinhdiệt độ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni lịch sử cũng là bất sinh bất diệt.  Qua cái nhìn pháp thân thì mang sắc thái thường trú, bất sinh bất diệt, vì thân ấy từ chân như thanh tịnh dẫn ra, từ bản nguyện dộ sinh khôngthời kỳ kết thúc.  Dùng con mắt phàm phuxem xét pháp thân thì chỉ là vọng kiến điên đảo, thêm bớt sinh diệt: “Nhãn trung khán kiến trùng thiêm tiết.”  Đức Phật vẫn hiện hữu nhưng vì chúng sanh không thấy đó thôi.  Như Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh có ghi:  “Đồ đựng nước bị bể, Ánh trăng không hiện ra, Như vậy lỗi chúng sanh, Tượng Phật cũng chẳng hiện.”[7]

Bốn câu sau cùng là nhắc lại việc đản sinh của đức Phật.  Hằng năm, vào ngày mùng 8 tháng tư âm lịch, các chùa tổ chức lễ hội Tắm PhậtLễ hội ấy dựa theo kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả[8], rằng khi đức Phật đản sinh có hai con rồng phun nước hương thơm, một dòng ấm một dòng mát, rưới lên kim thân thái tử Tất-đạt-đa.  Kinh Phổ Diệu[9] thì nói đến chín con rồng ở trên không trung rưới nước hương thơm xuống tắm rửa thái từ vừa đản sinh.  Theo kinh Ưu-bà-di Tịnh Hạnh Pháp Môn [10], thái tử vừa đản sinh thì đã biết đi, “nhẹ nhàng đi bảy bước trên bảy hoa sen”.  Mỗi bước chân thái tử nhìn về một phương, cả thảy sáu phương: đông, tây, nam, bắc, hạ, thượng.  Đến bước thứ bảy thì thái tử một tay chỉ lên trời và một tay chỉ xuống đất, tuyên bố: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Nói xong, chư thiên dâng hai dòng nước ấm mát tắm cho thái tử, sau đó thái tử trở lại như mọi đứa trẻ bình thường

Ý nghĩa bảy bước hoa sen, theo kinh Ưu-bà-di Tịnh Hạnh Pháp Môn, như sau: Bước thứ nhất, nhìn về phương đông, ngài nguyện làm người dẫn đường tối thượng.  Bước thứ hai, nhìn về phương nam, ngài nguyện làm ruộng phước tốt cho chúng sanh.  Bước thứ ba, nhìn về phương tây, ngài nói đây là thân rốt sau.  Bước thứ tư, nhìn về phương bắc, ngài nói sẽ chứng đắc Vô thượng bồ đề.  Bước thứ năm, nhìn xuống phương hạ, ngài nói sẽ hàng phục ma quân phiền não.  Bước thứ sáu, nhìn lên phương thượng, ngài nguyện làm nơi y chỉ cho chư thiênloài người.  Bước cuối cùng, ngài tuyên bố: “Trên trời, dưới trời chỉ có Ta là trên hết”, bởi lẽ sự kiện một đức Phật xuất hiện ở đời như một bậc tôn quý nhất, tối thắng nhất là vô tiền khoáng hậu.  Kinh Tăng Chi Bộ ghi: "Một người, này các tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tợ, không có đối phần, không có người ngang bằng, không có đặt ngang bằng, bậc tối thượng giữa các loài hai chân.  Người ấy là ai ? Chính là Như Lai, bậc A-la-hán Chánh đẳng chánh giác."

Một tượng Phật Thích Ca sơ sinh, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, được đặt trong một cái chậu nước sạch có rắc hoa thơm. Phật tử sắp thành hàng dọc, vừa tụng kệ chú tắm Phật, vừa tiến đến trước tượng Phật, múc một muỗng nước hương thơm rưới tắm lên tượng Phật.  Nghi thức tắm Phật ấy hàm ẩn một ý nghĩa cao siêu, đó là pháp thân Phật vốn thanh tịnh, dụ cho Phật tánh vốn tiềm ẩn trong mỗi người, nhưng vì bị bụi bặm phiền não tham, sân, si, … che lấp, nên Phật tánh không hiển lộ ra được.  Muốn hiển lộ Phật tánh cần mượn nước để tẩy rửa bụi bặm che lấp Phật tánhQuán chiếu việc tắm Phật như là việc gội rửa nội tâm để tìm lại tự tánh sáng ngời vốn sẵn có của mình.  Múc một muỗng nước hương thơm rưới từ trên vai tượng Phật sơ sinh, nếu tâm ta có niệm tham, niệm sân, niệm si … thì xin nguyện cho những tâm niệm xấu ác này theo dòng nước thanh tịnh mà trôi đi, chuyển hóa nội tâm trở nên trong sáng

Tắm Phật cũng là sự biểu lộ lòng thành kính của mình với đức Phật, nguyện báo ơn Phật vì nghĩ nhớ ơn nặng của Ngài: “Đức Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì chúng tathực hành bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ khổ cực. Khi ta tạo tội, Phật đã xót thương, phương tiện giáo hóa, mà ta ngu si, không biết tin tưởng, tiếp nhận. Ta đọa địa ngục, Phật càng đau xót, muốn chịu thay khổ sở cho ta, nhưng nghiệp ta quá nặng, hết cách cứu vớt. Ta sinh loài người, Phật liền dùng phương tiện làm cho ta gieo trồng thiện căn. Đời đời kiếp kiếp, Phật theo dõi ta, lòng không lúc nào rời bỏ chốc lát.”[11]

Chúng con nguyện:

Dứt bỏ dục tình ngoan cố,

Học đòi đức tánh quang minh,

Cúi xin Phật tổ giám thành,

Từ bi gia hộ,

Chúng con cùng pháp giới chúng sanh,

Chóng thành đạo quả.

Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật tác đại chứng minh.

 

 Phật tử Quảng Minh

 19/5/2010

Mồng 6 tháng tư Canh Dần

 Hiệu đính: 29/4/2020



[1] Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy 敕修百丈清規, quyển 2: Ngã kim quán mộc chư Như Lai, Tịnh trí trang nghiêm công đức hải, Ngũ trược chúng sinh ly trần cấu, Đồng chứng Như Lai tịnh pháp thân. 我今灌沐諸如來, 淨智莊嚴功德海, 五濁眾生離塵垢, 同證如來淨法身。

[2] Xuất xứ từ bài kệ thượng đường thị chúng của thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo 大慧宗杲 (1089- 1163) nhân ngày Lễ tắm Phật. Đại Tuệ Phổ Giác Thiền Sư Ngữ Lục 大慧普覺禪師語錄, No. 1998A, quyển 2, tr. 819c21: Tỳ lam viên lý bất tằng sanh, Song lâm thọ hạ hà tằng diệt, Bất sanh bất diệt kiến Cù đàm, Nhãn trung hựu thị trùng thiêm tiết. (毘藍園裏不曾生,雙林樹下何曾滅,不生不滅見瞿曇,眼中又是重添屑。Nơi vườn Tỳ-lam chưa từng sinh Trong rừng song lâm đâu từng diệt Chẳng sinh chẳng diệt thấy Cù-đàm, Trong mắt lại càng thêm vướng bụi.) Kim tiết tuy quý, lạc nhãn thành ế 金屑雖貴 落眼成翳 (Mạt vàng tuy quí, rơi trong con mắt cũng thành bệnh.) Mạt vàng cũng giống như hạt bụi mà thôi.

[3] Đại Tuệ Phổ Giác Thiền Sư Ngữ Lục, quyển 2, tr. 814c20: Kim triêu chánh thị tứ nguyệt bát, Tịnh Phạn vương cung sinh Tất-đạt, Thổ thủy cửu long thiên ngoại lai, Bổng túc thất liên tùng địa phát. 今朝正是四月八, 淨飯王宮生悉達, 吐水九龍天外來, 棒足七蓮從地發。

[4] Thần chú Phật Thích Ca Mâu Ni:  Om muni muni mahamuni shakyamuni svaha

[5] Phật Thuyết Dục Tượng Công Đức Kinh 佛說浴像功德經, No. 697, Đại Đường Tây Trúc Tam tạng Bảo Tư Duy dịch.: Ngã kim quán mộc chư Như Lai, Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ, Ngũ trược chúng sinh lệnh  ly cấu, Nguyện chứng Như Lai tịnh pháp thân. 我今灌沐諸如來, 淨智功德莊嚴聚, 五濁 眾生令離垢,願證如來淨法身.

Dục Phật Công Đức Kinh 浴佛功徳經, No. 698, Pháp sư Nghĩa Tịch dịch:  Ngã kim quán mộc chư Như Lai, Tịnh trí công đức trang nghiêm tụ, Nguyện bỉ ngũ trược chúng sinh loại, Tốc chứng Như Lai tịnh pháp thân. 我今灌沐諸如來, 淨智功徳莊嚴聚, 願彼五濁衆生類, 速證如來淨法身.

[6] Năm thứ vẩn đục: Thời kỳ vẩn đục, kiến thức vẩn đục, tâm lý vẩn đục, con người vẩn đục, đời sống vẩn đục (kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược).

[7] Đại thừa Trang nghiêm kinh luận 大乘莊嚴經論, No. 1604, quyển 3, tr. 603b05: Thí như thủy khí hoại, Nguyệt tượng bất hiện tiền, Như thị chúng sinh quá, Phật tượng diệc bất hiện. 譬如水器壞, 月像不現前, 如是衆生過, 佛像亦不現。

[8] Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh 過去現在因果經, No. 189.

[9] Phật Thuyết Phổ Diệu Kinh 佛説普曜經, No. 186.

[10] Ưu-bà-di Tịnh Hạnh Pháp Môn Kinh 優婆夷淨行法門經, No. 579.

[11] Khuyến phát bồ đề tâm văn, đại sư Thật Hiền, H.T Thích Trí Quang dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 639)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 686)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 545)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 589)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1389)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 993)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1750)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1520)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1392)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant