Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tư Tưởng Trung Đạo Qua Bát Bất

11 Tháng Sáu 202012:39(Xem: 5638)
Tư Tưởng Trung Đạo Qua Bát Bất
Tư Tưởng Trung Đạo Qua Bát Bất  

Thích Nữ
Vạn Duyên

Tư Tưởng Trung Đạo


Mở đầu Trung luận, Bồ-tát Long Thọ đã sử dụng Bát bất duyên khởi để hệ thống hóa tư tưởng Tánh không trong kinh Bát-nhã. Từ cơ sở này, ngài phân tích làm sáng tỏ hệ thống triết học của mình1.

Mục tiêu của luận thuyết này là “phá tà hiển chánh”, do đó, những nỗ lực của Trung luận là nhằm phê bình các quan điểm sai lầm của ngoại đạo và ngay cả một số bộ phái Phật giáo như Độc Tử bộ, Hóa Địa bộHữu bộ. Ở bài viết này, tác giả xin trình bày một vài điểm về Bát bất trong Trung luận.

Bất sanh bất diệt

Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt. Trung luận đã đề cập như sau:


Có người hỏi, vì sao tạo luận này. Đáp: “Có người cho rằng vạn vật từ đại tự tại thiên sanh, có người nói từ (vĩ nữu) thiên sanh, có người nói từ hòa hợp sanh, từng thời sanh, nói từ thể tánh sanh, nói từ tự nhiên sanh, hay nói từ vi trần sanh….”2. Như vậy Bồ-tát Long Thọ đưa ra “bất sanh bất diệt” là để phá những kiến chấp trên. Trong Trung luận, Long Thọ cho rằng:

“Các Pháp không tự sanh
Không từ cái khác sanh
Từ cả hai không nhân
Do vậy biết không sanh”3.

Theo pháp Duyên khởi thì các pháp khôngtự tánh. Tại vì không có tự tánh nên tha tánh cũng không. Vì nhân tự tánh mới có tha tánh, nên nếu tự tánh không có thì tha tánh cũng không có.

Khái niệm này ta cũng có thể tìm thấy nơi kinh tạng Pāli. Kinh Mật hoàn nói: "Chư Hiền, do nhân lỗ tai và các tiếng, nhĩ thức khởi lên, do nhân lỗ mũi và các hương, tỷ thức khởi lên, do nhân lưỡi và các vị, thiệt thức khởi lê, do nhân thân và xúc, thân thức khởi lên, do nhân ý và các pháp, ý thức khởi lên. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc nên có các cảm thọ. Những gì có cảm thọ thời có tưởng, những gì có tưởng thời có suy tầm, những gì có suy tầm thời có hý luận"4. Theo đoạn kinh này, vì có sự tiếp xúc giữa mắt và sắc mà nhãn thức sanh. Như vậy, khi một pháp sinh khởi cần phải có đủ các duyên khác. Nếu như các pháp không cần duyên, thì con mắt phải sanh con mắt, sắc phải sanh sắc, nhưng ở đây kinh nói “duyên mắt với sắc phát sanh ra nhãn thức”.

Theo Bồ-tát Long Thọ:

Nếu quả từ duyên sanh
Duyên ấy không tự tánh
Từ không tự tánh sanh
Sao lại nói duyên sanh


Hay

Quả chẳng từ duyên sanh
Chẳng từ phi duyên sanh
Quả ấy vốn không sanh
Duyên phi duyên cũng không5.


Ở đây Bồ-tát Long Thọ muốn bác bỏ cái nhìn của hàng phàm phu, cho là nhân sinh ra quả, hoặc quả sinh ra nhân. Nói quả sinh ra từ nhân, nhưng nhân lại không có tự tánh. Nếu nhân khôngtự tánh thì nhân ấy sẽ bị thay đổi. Từ nhân thành cây, cây lại ra quả, quả lại có nhân, liên tục thay đổi. Thế thì quả sinh ra gì? Nếu nói quả sinh, thì quả phải sinh ra quả, chứ sao lại sinh ra cây, rồi từ cây mới có quả. Cả một chiều dài từ nhân đến quả, rồi quả về với nhân, là một vòng sinh và diệt liên tục, không có trạng thái nhất định của sanh và diệt. 

Bởi vì “Các pháp không tự tánh, không có tướng thật có, nên việc nói thực tướng, thì tướng thực như vậy chẳng đúng6. Do đó Bồ-tát Long Thọ nói là bất sanh. Các pháp khôngtự tánh, không có tự tánh thì không có tướng chân thật, nên nói có thật tướng là không đúng. Vì cái gọi là sanh diệt đó chỉ là một hiện tượng theo thấy biết của chúng ta. Nhìn trên mặt hiện tượng của pháp, ta thấy có con người hiện hữu ở đời, sống một thời gian trên cõi đời, để rồi một ngày nào đó phải ra đi, và khi chết đi gọi là mất. Nhưng theo Trung luận, ta thấy không có gì diệt mất, vì tất cả các pháp vốn là không:

Chưa từng có một pháp
Không từ nhân duyên sanh
Thế nên tất cả pháp
Không gì chẳng phải không7.


Vì các pháp là duyên sinh, nên mọi hiện tượng giống như trong giấc mộng, ảo ảnh phù du, dường như có nhưng thật là không có, như ảnh chiếu qua gương8. Đó là giáo lý duyên khởi của Đức Phật, được Bồ-tát Long Thọ triển khai nhằm mục đích đả phá những kiến chấp sai lầm vào thời của ngài. 

Bất thường bất đoạn

Vì sao Bồ-tát Long Thọ nói Bất thường bất đoạn? Vấn đề này liên quan đến quan điểm chấp thường và chấp đoạn mà trong các kinh đã đề câp. Trong kinh Phạm võng ta thấy: “Người ấy nói: Bản ngãthế giới là thường trú, bất sanh, vững chắc như đảnh núi, như trụ đá, còn những loại hữu tình kia thì lưu chuyển luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy, chúng vẫn thường trú9. Và trong kinh Tệ Tú có nói: “Bà-la-môn Tệ Tú là người có tà kiến, chủ trương thuyết hư vô ông cho rằng: Không có thế giới khác. Không có loài hóa sanh. Không có quả báo của tội phước”. Đây là một trong những dị kiến thuộc trường phái chấp đoạn, chủ trương thuyết đoạn10.
Hai đoạn kinh vừa dẫn là những kiến chấp của ngoại đạo được nêu ra vào thời Đức Phật nhưng Đức Phật đã không trả lời. Tuy nhiên với Bồ-tát Long Thọ thì ngài cho rằng “chẳng thường, chẳng đoạn”. Như vậy Long Thọ phủ nhận cả hai11. Ở đây người viết xin dẫn lại lời giảng giải của HT.Thích Thanh Từ để làm sáng tỏ vấn đề này.
Hỏi: Nếu chẳng diệt thì nên thường?
 
- Đáp: Chẳng thường vì cớ sao? Vì thế gian mắt thấy vạn vật chẳng thường, như khi mầm lúa nảy sanh thì hạt giống bị biến hoại, thế nên chẳng thường. Vậy thì mất cái gì hạt lúa ư hay là mất mầm lúa, nếu như không có hạt lúa thì mầm lúa có sanh không?12 Nếu như nói thường thì hạt lúa phải thường còn mãi, chứ sao lại thành mầm lúa, nếu hạt lúa đã thành mầm lúa, thì đã có sự thay đổi thì sao gọi là thường. 
 
* Hỏi: Nếu không thường thì đoạn? 
 
- Đáp: Không đoạn. Vì sao? Vì thế gian mắt thấy vạn vật không đoạn như hạt lúc nảy mầm từ cây lúa, thế nên không đoạn, nếu đoạn thì không có sự tương tục13.
Theo kinh Mi Tiên vấn đáp thì: “Thời gian thường trải qua ba thì: quá khứ, hiện tại, vị lai. Quá khứ thì vô thỉ (không có khởi đầu) vị lai thì vô chung (không có chấm dứt), nên nói quá khứ, vị lai đều vô cùng, vô tận, còn hiện tại thì chỉ là cái chớp mắt thoáng trôi, đại vương nên có ý niệm về thời gian như vậy. - Cả ba thì quá khứ, hiện tại, vị lai tức là thời gian, và thời gian này luôn luôn hiện hữuchi phối tất cả hữu tình có phải vậy không thưa Đại đức? - Có khi có, có khi không tâu Đại vương14. Ở đây ngài Mi Tiên muốn nói rằng quá khứ, vị lai thì không có điểm khởi đầu cũng không có điểm kết thúc, hiện tại thì thoáng trôi qua. Bởi vì thời gian không có điểm khởi đầu và không có điểm kết thúc, nên kinh Mi Tiên vấn đáp lại nói: “Thời gian tối sơ của một chúng sanh chẳng thể tìm được tâu Đại vương. Vì sao? Ví dụ trứng gà ấp nở ra con15. Mọi pháp đều như thế, không có điểm khởi đầu cũng không có điểm kết thúc, như bánh xe luân hồi không có điểm dừng, xoay vần mãi không ngừng nghỉ. Và cũng do vậy mà Trung luận nói: “Từ hạt giốngtương tục, từ tương tục mà có quả, trước hạt giống sau có quả, không đoạn cũng không thường”. Hay: “Từ khởi tâm ban đầu, tâm tâm tương tục sanh, từ đó có kết quả, thời không có tương tục”16.
Bất nhất bất dị 

thời kỳ Phật giáo bộ phái, Độc Tử bộbộ phái chủ trương có thần ngã, có ngã thực hữu. Ngã ấy “phi tức phi ly ngũ uẩn”; và họ lấy ví dụ củi và lửa để minh họa. Củi và lửa không phải một, không phải khác, hai thứ nương vào nhau mà có và thật có17. Bồ-tát Long Thọ đã phản bác luận điểm trên:
Nếu lửa có thể đốt
Vậy tác nhântác giả nên là một
Nếu đốt khác cái bị đốt
Vậy lìa khỏi cái bị đốt 
vẫn có cái đốt18
Tuy nhiên:
Lửa không tùy nhiên liệu
Cũng chẳng phải không tùy
Nhiên liệu không tùy lửa
Cũng chẳng phải không tùy19.
Ở đây người viết xin dẫn lại lời giảng giải của Hòa thượng Thích Thanh Từ để làm sáng tỏ quan điểm “bất nhất bất dị” mà ngài Long Thọ đưa ra.
* Hỏi: Nếu như vậy vạn vật là một?
 
- Đáp: Chẳng phải một, vì sao? Mắt thế gian thấy vạn vật chẳng phải một, như hạt lúa không là mầm, mầm không là hạt lúa, nếu như hạt lúa là mầm, mầm là hạt lúa là một, mà thật không phải vậy nên chẳng là một. 
 
* Lại hỏi: Nếu không là một thì là khác?
 
- Đáp: Chẳng khác, vì thế gian mắt thấy vạn vật chẳng phải khác, nếu khác thì làm sao phân biệt hạt lúa, mầm lúa, cây lúa, mà không nói mầm cây, cọng cây, là cây, thế nên không khác 20…

Bất lai bất xuất 

Đến và đi là một trạng thái vận động từ nơi này đến nơi khác, hay từ nơi khác đến nơi này. Khứ lai không phải chỉ dành riêng cho con người, mà tất cả vạn vật đều nằm trong sự vận động đến và đi. Như nước chảy, mây bay, tan tụ theo sự chuyển dịch của chúng cũng gọi là khứ lai21. Nhưng ở đây Trung luận cho rằng không có đến và không có đi.


Theo các nhà Hữu bộ, các pháp thật có trong ba thời quá khứ, hiện tạivị lai, tức là họ chấp các pháp có tự tánh chân thực. Nhưng Long Thọ đã bác bỏ quan điểm của các nhà Hữu bộ, nói rằng: “Đã đi không có đi, chưa đi cũng không đi, lìa đã đi chưa đi, lúc đi cũng không đi22. Nếu nói đã đi thì chúng ta đã đi rồi, còn nếu nói lìa người đi thì làm sao có động tác đi, chưa đi thì không có người đi, vì chưa có động tác đi, còn khi nói đang đi thì hành động đi hay người đi, hay nửa đi nửa dừng lại, thì nó chưa có rời khỏi đã đi và chưa đi. Từ đó Long Thọ cho rằng đang đi cũng không phải đi: “Không đi cũng không phải chưa đi, lúc đi cũng không đi, tất cả không có pháp đi, vì cớ chi phân biệt” 23. Lại nữa: “Nếu quyết định thật có người đi, người ấy không thể sử dụng ba thời đi, nếu không quyết định thật có người đi, thì người đi cũng không sử dụng ba thời đi”. Hay, “Động tác đi quyết định có hay không có, người đi cũng không thể sử dụng ba thời đi, thế nên đi, người đi và chỗ đến đều không có24.

Qua hai kệ ta thấy, nếu quyết đinh có người đi, thì phải có động tác đi. Động tác đi ấy chia làm ba thời, chưa đi, đã đi, đang đi. Người ta không thể sử dụng ba thời đi, vì chưa đi thì không đi, đã đi rồi thì không còn đi nữa, còn đang đi thì phải có người đi và động tác đi, nếu lìa động tác đi và người đi thì pháp không lập được. Cho nên Bồ-tát Long Thọ nói chẳng đến cũng chẳng đi. Sở dĩ chúng ta thấy có đến, có đi là chúng ta thấy trên phương diện hiện tượng; dựa vào thời giankhông gian mà các pháp có sự vận hành đến đi, nếu khôngthời giankhông gian thì đến đi không thể thành lập

Thích nữ Vạn Duyên
_____________
(1) Sa Sa Ki Kyō Go, Taka Sako Jiki Dou, I No Kuchi Tai Jun, Tsuka Moto Kei Dhō - Thích Đạt Hòa (Hán dịch), Thích Hạnh Bình, Phương Anh (Việt dịch), Khái luận lịch sử Phật giáo Ấn Độ, (2013), NXB.TP.Hồ Chí Minh, tr.113.
(2) Thích Thiện Siêu dịch, Trung luận (2001), NXB.TP.Hồ Chí Minh, tr.20. 
(3) Thích Thanh Từ dịch-giảng, Trung Luận, (2008), NXB.Tôn Giáo, tr.49. 
(4) Thích Minh Châu dịch, kinh Trung bộ 1, (2012), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.151.
(5) Bồ-tát Long Thọ, Đỗ Đình Đồng dịch, Trung luận và Hồi tranh luận (2014), NXB.Hồng Đức, tr.32.
(6 Ấn Thuận, Thích Tâm Trí dịch, Luận Trung quán, (2016), NXB.Hồng Đức, tr.87. 
(7) Ấn Thuận, Thích Hạnh Bình-Quán Như dịch, Lược giảng Trung quán luận, (2010), NXB.Phương Đông, tr.118. 
(8) Trịnh Xuân Thuận, Hồ Hữu Hưng dịch, Cuộc đối thoại khoa học và Phật giáo, (2010), NXB.Phương Đông, tr.14. 
(9) Thích Minh Châu dịch, kinh Trường bộ tập 1, (1991), Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành. TP.Hồ Chí Minh, tr.32.
(10) Thích Nguyên Hùng, Tổng quan bốn bộ A-hàm, (2014), Toát yếu kinh Trường A-hàm. NXB.Hồng Đức, Hà Nội. tr.40.
(11) Ấn Thuận, Thích Nguyên Chơn dịch, Diệu nghĩa duyên khởi Tánh không, (2017), NXB.Hồng Đức, tr.120. 
(12 Thích Thanh Từ giảng dịch, Trung luận (2008), NXB.Tôn Giáo, tr.44. 
(13) Thích Thanh Từ giảng dịch, Trung luận (2008), NXB.Tôn Giáo, tr.45.
(14) Thích Giới Nghiêm dịch, kinh Mi Tiên vấn đáp, (2003), NXB.Tôn Giáo, tr.162. 
(15) Ví dụ trứng gà ấp nở ra gà. Gà con thành gà mẹ, lại đẻ trứng, ấp nở ra bầy gà con. Gà con lớn lên đẻ trứng, ấp nở ra gà nữa và cứ thế tiếp tục đến vô cùng vô tận. Đại vương có thể nào tìm ra gà sinh trứng hay trứng sinh gà? Có thể tìm ra nguồn gốc của con gà kia chăng? Kinh Mi Tiên vấn đáp, tr.166.
(16) Thích Thiện Siêu dịch và tóm tắt, Trung luận, (2001), NXB.Tôn Giáo, tr.182. 
(17) Linh Sơn Pháp Bảo Đại tạng kinh, tập 99, số 1588, luận A-tỳ-đạt-ma-câu-xá, (phẩm Phá ngã 29), tr.808. 
(18) Ấn Thuận, Thích Tâm Trí dịch, Luận Trung quán, (2016), NXB.Tôn Giáo, tr.234. 
(19) Bồ-tát Long Thọ, Đỗ Đình Đồng dịch, Trung luận và Hồi tranh, (2015), NXB.Hồng Đức, tr.112. 
(20) Thích Thanh Từ giảng dịch, Trung luận, (2008), NXB.Tôn Giáo, tr.47. 
(21) Ấn Thuận giảng, Thích Tâm Trí dịch, Luận Trung quán, (2016), NXB.Hồng Đức, tr.92. 
(22)  Sđd, tr.96. 
(23) Thích Thiện Siêu dịch và tóm tắt, Trung luận, (2001), NXB.TP.Hồ Chí Minh, tr.34. 
(24) Sđd, tr.39.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2011)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3005)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2624)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3525)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3352)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4190)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3706)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4259)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2345)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3493)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4182)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3960)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2894)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3365)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3506)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4561)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3895)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4785)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4055)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3042)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3793)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3937)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3106)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3626)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4462)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3738)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2271)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2631)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3037)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2733)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4602)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4935)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2839)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5293)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2864)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3304)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4387)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4955)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4718)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3258)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4565)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4293)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6156)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3515)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4037)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6024)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5427)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4070)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33140)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3183)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4163)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4743)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3099)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3819)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3558)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6561)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2779)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3234)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4595)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3463)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant