Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Làm Thế Nào Để Đoạn Trừ Các Lậu Hoặc ?

21 Tháng Sáu 202019:21(Xem: 4734)
Làm Thế Nào Để Đoạn Trừ Các Lậu Hoặc ?

Làm Thế Nào Để Đoạn Trừ Các Lậu Hoặc ?


Thích Nữ Hằng Như 


Làm Thế Nào Để Đoạn Trừ Các Lậu Hoặc

DẪN NHẬP

Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới khi trút hơi thở cuối cùng. Nhưng chết rồi cũng chưa hết khổ. Vì tâm thức của con người sẽ bị nghiệp lực dẫn đi tái sanh. Nếu đời sống hiện tại, con người biết tu hành, làm việc thiện lành tránh việc hung ác, thường tạo nhiều phước báo,  thì khi chết được tái sanh làm người. Ngược lại sống ở đời với tâm địa ác độc, xấu xa, luôn gây phiền não khổ đau cho người khác, thì sau khi chết bị đọa vào một trong ba đường khổ: súc sanh, ngạ quỷ hay địa ngục. Và cứ thế hết đời này qua đời khác, chúng sanh cứ như vậy chịu trôi lăn, lặn ngụp, đắm chìm trong bể khổ đường mê, không bao giờ thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.

         Mô tả về nỗi khổ của con người, Đức Phật giảng rất rõ trong bài kinh Tứ Diệu Đế. Con người khổ là do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là do tham dục, khát ái về các món: tài, sắc, danh, thực, thùy… nhằm phục vụ thỏa mãn sáu giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.  Vì lòng tham lam khao khát không bờ bến, nên nó luôn thúc đẩy con người có những hành động bất kể tốt hay xấu, ngay cả việc hại người cũng không từ nan,  miễn sao đạt mục đích thì thôi. Chính lòng tham vô đáy đó, khiến con người lúc nào cũng dằn vặt lo âu phiền não cho dù thành công hay thất bại.

          Sau khi chứng ngộ Tam Minh đặng quả vị A-La-Hán Vô Thượng Chánh Giác, hoàn thành con đường giải thoát. Đức Phật đã xác định con người bị luân hồi sanh tử là do lậu hoặc. Chấm dứt lậu hoặcchấm dứt luân hồi sanh tử. Như vậy bậc A-La-Hán là những bậc không còn luân hồi sanh tử nữa. Nghĩa là đã đoạn trừ mọi lậu hoặc. Chúng ta là người phàm phu đang gánh chịu nhiều phiền não khổ đau. Nay đi tìm chân lý giải thoát, cần phải hiểu rõ lậu hoặc là cái gì? Và làm thế nào để đoạn trừ các lậu hoặc đó?

 

                                                          LẬU HOẶC LÀ GÌ?

         “Lậu hoặc” dịch theo âm tiếng Hán. Chữ  gốc là “Ãsava” (Pãli) hay “Ãsrava” (Sanskrit).  Lậunghĩa đen là chất mủ rỉ chảy từ thân cây. Hoặc có nghĩa là dơ bẩn, ô uế hay là mê mờ, mê lẩn.

          Trong giáo pháp nhà Phật, hai từ “lậu hoặc” nhằm ám chỉ những chất dơ bẩn, như là những dòng máu mủ hôi tanh dơ dáy, không ngừng rỉ chảy làm ô nhiễm tâm trí chúng sanh. Chất dơ bẩn đó là những đam mê ghiền nghiện không thể từ bỏ được, nó huân tập từ nhiều đời và tiếp tục tạo thêm ở đời này.  Lậu hoặc chính là những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, bao gồm thành kiến, thiên kiến, định kiến, là lòng ích kỷ, là những ý nghĩ ác độc hại người, lợi mình…   Nó chính là nguyên nhân khiến chúng sanh bị trầm luân trong biển khổ  và luân hồi sinh tử triền miên trong các cõi: Trời, Người, Asula, Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục. Lậu hoặc chia làm bốn loại, đó là: Dục lậu, Hữu lậu, Kiến lậuVô minh lậu.

           1. Dục lậu (Kãmãsava): Từ Kãmã có nghĩa là cõi dục,  là thế giới vật chất, nơi chúng sanh đang tạm dung thân. Vì sống trong cõi dục nên chúng sanh ham muốn những đối tượng bên ngoài do giác quan tiếp xúc. Nếu Dục đi kèm với lậu thì cái tham muốn này mang tính chất xấu xa, đồi bại, hư hỏng, dơ bẩn, lầm lạc. Dục lậu như là chất keo có năng lực lôi cuốn làm say đắm tất cả chúng sanh. Nó khiến con người bám chặt vào tiền tài, vật chất, nhà cửa, xe cộ, vàng bạc, nữ trang, bám chặt vào nhan sắc nhục dục, nó khiến chúng sanh ham thích chạy theo danh vọng, ham muốn được nổi tiếng, tham ăn tham ngủ v.v… Dục lậu chi phối cuộc sống của con người, nó lôi kéo chúng sanh vào con đường đam mê không lối thoát.  Tóm lại, dục lậu là tất cả những ham muốn đắm say của cải vật chất, những  thù hận hay thú vui đam mê tình ái, sắc dục ngũ trần….

           2. Hữu lậu (Bhavãsava): Chỉ cho sự tham ái, dinh mắc, chấp thủ thân này có thật, mong muốn luôn có mặt trong đời này để hưởng thụ, cũng như mong ước được tái sanh lên các cõi Trời của các vị Phạm thiên (Brahma) có sắc hình vi tếPhạm thiên vô sắc. Trong ý nghĩa này chúng ta có thể hiểu Hữu lậu có ba dục là: Dục hữu, Sắc hữuVô sắc hữu. Dục hữu hay Dục cầu, tương tự như Dục lậu. Còn Sắc hữuVô sắc hữu , là muốn nói đến sự ham mê, mong muốn được chứng đắc các tầng thiền để thọ hưởng thiền lạc như hỷ, lạc, xả …

        3. Kiến lậu (Ditthãsãva): Là cái nhìn thấy biết sai lệch, những tư tưởng, những triết lý, quan niệm sai lạc mà cho là đúng. Chấp thủ vào những điều sai lạc đó, đưa đến sự đối kháng, tranh chấp để bảo vệ quan điểm của riêng mình. Đó là Kiến lậu. Kiến lậu là những phiền não thuộc về sở tri, về kiến thức, về quan niệm. Trên mặt chính trị, đảng phái, tôn giáo, hội đoàn, Kiến lậusự cố chấp, xuẫn động, dễ đưa đến hỗn loạn, chiến tranh, hận thù… làm tổn thương đến giá trị tinh thần, lòng nhân ái, làm mất đi công bằnglẽ phải giữa con người với con người. Nếu Dục lậu, Hữu lậu gây phiền não tâm, thì Kiến lậu gây phiền não trí.

          4. Vô minh lậu (Avijjãsava):  Là trạng thái bất tri, tức trạng thái vô minh không hiểu biết cuộc sống của con người liên quan đến Tứ Diệu Đế, Ngũ Uẩn, Thập Nhị Nhân Duyên… Nghĩa là không biết gì về khổ, về nguyên nhân gây ra khổ, sự chấm dứt khổ và con đường chấm dứt khổ. Nói cách khác là không biết gì về tiến trình sinh diệt của ngũ uẩn, của mười hai nhân duyên khởi. Không hiểu nên không nhận raCái Ta” hay “Cái Ngã” chỉ là “Ngã giả” không thực chất tính, không thực thể, nên nó Vô thường, Vô ngã, trống rỗng là tánh Không… nên cứ bám chặt vào quan điểm sai lầm, cho rằng ngũ uẩn này chính là mình, “là Ta, của Ta, Tự ngã của Ta”.

        Tóm lại, Vô minhtrạng thái tâm không sáng suốt, không tỉnh thức, không tỉnh giác, thiếu hiểu biết. Vì Vô minh che mờ khiến người ta có những hành động lầm lạc, gieo trồng các vọng nghiệp, gọi chung là lậu hoặc, khiến con người phải chịu trôi lăn trong vòng sanh tử.

 

LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐOẠN TRỪ CÁC LẬU HOẶC ?

         Nhằm giải quyết bài toán “làm thế nào để đoạn trừ các lậu hoặc?”, Đức Phật đã đưa ra nhiều phương cách tu tập như:  Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Thần Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo…  Hành giả thích hợp với pháp môn nào thì hành trì pháp môn đó! 

         Đặc biệt,  bài “Kinh Tất Cả Các Lậu Hoặc” (Sabbàsava Sutta) nằm trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikãya) do Cố Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang Việt Ngữ, Đức Phật đã đưa ra một số phương pháp diệt trừ lậu hoặc. Bài pháp này Đức Thế Tôn đã giảng tại thành Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-Cô-Độc) cho các vị tỳ-kheo.  

         Ngài dạy rằng:  “Này các tỳ-kheo, do “không như lý tác ý” các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng. Này các tỳ-kheo, do “như lý tác ý” các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt. Này các tỳ-kheo, có những lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ, có  những lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ”.

 

KHAI TRIỂN BẢY PHÁP DIỆT TRỪ LẬU HOẶC

        Tâm phàm phu là tâm chất chứa những chất ô nhiễm bị Phật ví nhưhồ nước đục”tâm trí lúc nào cũng tối tăm mờ mịt với những ý nghĩ, đưa tới hành động, lời nói tạo nghiệp xấu xa, trong đạo Phật gọi là Ý nghiệp, Thân nghiệp  và Khẩu nghiệp. Ba nghiệp này bị lậu hoặc chi phối, thúc đẩy, khiến những ý nghĩ, lời nói và hành động điên đảo tạo lắm phiền não cho chính mình và những người xung quanh. Muốn trong sạch hóa tâm phàm phu, muốn thanh tịnh ba nghiệp, muốn ra khỏi vòng kiềm tỏa của khổ đau, của luân hồi sanh tử, hành giả phải tu tập để đạt được trạng thái tâm Vô lậu.

         Tâm Vô lậu là tâm hoàn toàn trong sạch, không còn lậu hoặc, tập khí. Đó là tâm sáng suốt thấy biết như thật các pháp, không còn phân biệt nhị nguyên, nghĩa là không vướng bận với chuyện quá khứ, cũng không suy luận suy đoán gì ở tương lai. “Kinh Tất Cả Các Lậu Hoặc” dạy muốn đạt được tâm Vô lậu, hành giả có bảy cách tu theo pháp mônNhư Lý Tác Ý”.  Chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa của các pháp đó như thế nào.

        - “Như lý tác ý” là khởi ý, tác ý suy nghĩ những việc thiện lành đạo đức thích hợp với lời dạy của Đức Phật. “Phi như lý tác ý” là khởi ý chấp nhận những ý tưởng có hại cho mình và cho người, những ý tưởng làm cản trở việc hành trì các pháp tu trên con đường giải thoát. Thí dụ như năm triền cái: tham, sân, hôn trầm, trạo hối và nghi là năm chướng ngại trong việc hành thiền khiến trí huệ tâm linh không có cơ hội phát sáng.

         1. Lậu hoặc được đoạn trừ do “Tri kiến”:  Pháp này, hành giả  phải xử dụng “tri kiến” để diệt trừ lậu hoặc. Tri kiến là sự hiểu biết của ý thức. Nhờ có sự hiểu biết của ý thức, hành giả mới áp dụng được pháp “Như Lý Tác Ý” mà không áp dụng pháp “Phi Như Lý Tác Ý” để đoạn trừ lậu hoặc. Tri kiếnhai mặt: Chánh tri kiến và Tà tri kiến.

              1-1: Tà tri kiến:tri kiến ác, là những hiểu biết sai lầm, không đúng với chánh pháp,  đi ngược với đạo đức làm người, gây buồn khổ cho mình và  đau khổ cho người.

              2-1: Chánh tri kiến: Đây là tri kiến thiện lành, cũng là chi thứ nhất trong Bát Chánh Đạo. Muốn có Chánh tri kiến, hành giả phải gần gủi với các bậc Thánh, các bậc Chân Nhân để được thấy, nghe, học hỏi, tu tập thuần thục pháp của các bậc này. “Kinh Tất Cả Các Lậu Hoặc” dạy rằng: “… Này các tỳ-kheo, ở đây có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhơn, không thuần pháp các bậc Chơn nhơn, không tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, không tuệ tri các pháp cần phải tác ý, không tuệ tri các pháp không cần phải tác ý…”  Có học hỏi pháp từ các bậc Thánh, bậc Chơn nhơn, hành giả mới tuệ tri được pháp nào cần tác ý thì tác ý, để dục lậu chưa sanh không sanh khởi hay dục lậu đã sanh được đoạn trừ;  và pháp nào không cần tác ý thì không nên tác ý.

         - Các pháp cần tác ý là:  Đoạn tham,  đoạn sân,  đoạn si,  nghĩa là tu tập từ bỏ, đoạn diệt tâm tham, sân, si. Tác ý lìa bỏ, đoạn diệt tham, sân, si là “Như lý tác ý”. Người có tri kiến thiện là người chọn pháp tu đúng với Phật pháp,  thuận với đạo đức, là người có Chánh tri kiến.

         - Các pháp không cần tác ý là: Chấp thân ngũ uẩn có thật, dính mắc với tham, sân, si, mạn, nghi, tài, sắc, danh, thực, thùy. Người luôn tác ý sống với những tướng trạng này là đang xử dụng pháp “Phi Như Lý Tác Ý”  khiến lậu hoặc chưa sanh sẽ sanh khởi, và lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng. Đây là hạng người nuôi dưỡng trong tâm Tà kiến.

          Nhờ có tri kiến, mà hành giả biết chọn lựa pháp nào là pháp “Như Lý Tác Ý”,  và “Phi Như Lý Tác Ý” để đoạn trừ lậu hoặc.

          2.  Lậu hoặc được đoạn trừ do “Phòng hộ”: Pháp thứ hai, Phật dạy là “pháp Phòng Hộ”.  Để tâm không bị dính mắc sinh khởi lậu hoặc vì tham đắm với sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.  Hành giả phải phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Phòng hộ bằng cách nào? Trong cuộc sống hằng ngày khi giác quan tiếp xúc với  ngoại cảnh, hành giả cần có sự cảnh giác, giữ chánh niệm nội tâm, an trú với chánh kiến, nghĩa là không để tâm chạy theo trần cảnh rồi phân biệt, khen chê, thương ghét.

           Áp dụngpháp nhưtác ýnhận ra sự thật về bốn chân lý: “Đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là con đường đưa đến khổ diệt”. Nhờ tác ý như thế diệt trừ được ba kiết sử: thân kiến, nghi ngờ (Phật Pháp Tăng) và giới cấm thủ. Ngoài ra, hành giả không nên “phi như lý tác ý” những pháp không cần tác ý, vì nó sẽ khiến các  lậu hoặc chưa sanh sẽ sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh sẽ gia tăng.

         Đây là công phu giữ gìn phòng hộ thuộc giới học. Học rồi phải thực hành. Sự phòng hộ các căn,  giúp chế ngự được các tâm lý gây nên tàn hại, nhiệt não gọi là “phòng hộ đoạn trừ”. Tiến xa hơn, hành giả tu tập bằng cách đi vào công phu thiền Huệ hay thiền Định.

           - Thiền Huệ: Thực tập pháp Như Thật (Yathabhũta). Khi giác quan (sáu căn) tiếp xúc với đối tượng (sáu trần). Đối tượng như thế nào, thấy biết như thế ấy, giữ tâm yên lặng (không nói thầm trong não), nghĩa là không để ý thức chen vào phê phán, khen chê. Pháp này giúp hành giả làm chủ được sự suy nghĩ của mình. Tu tập thuần thục hành giả sẽ đạt đượcNhư Thật Tri Kiến”.

          - Thiền Định: Thực tập pháp Thở (Ãnapãnasati) hay pháp Không Nói (không nói thầm trong não). Thực tập an trú trong các Tánh. Khi Tánh Giác có mặt, thì Vọng tâm vắng mặt. Vọng tâm là tâm bị chi phối bởi lậu hoặc. Khi vọng tâm vắng mặt thì lậu hoặc cũng vắng mặt.

          3.  Lậu hoặc được đoạn trừ do “Thọ dụng”:  Thọ dụng là xử dụng các phương tiện sống để hỗ trợ công phu tu tập giải thoát, thực hành phạm hạnh.  Những thứ mà hành giả cần thọ dụng trong đời sống hằng ngày là:  y phục, thức ăn, thuốc men, sàng tọa chỗ ở.  Xem những thứ này chỉ là phương tiện giúp ngăn ngừa nóng, lạnh, tránh bị ruồi, muỗi hay các loài bò sát xúc chạm.  Xử dụng quần áo  chỉ nhằm mục đích che đậy sự trần truồng, chứ không phải để làm đẹp. Ăn uống chỉ nhằm nuôi thân khỏe để có sức mà tu. Tóm lại thọ dụng vừa đủ chứ không hưởng thụ, giải trí hay thỏa mãn sự đòi hỏi thích thú của bản ngã.

             Nếu không thọ dụng như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên. Nếu thọ dụng như lời Phật dạy thì các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy sẽ không còn nữa. Cách thọ dụng như vậy đoạn trừ được các lậu hoặc.

             4. Lậu hoặc được đoạn trừ do “Kham nhẫn” : Con người sống trong cộng đồng xã hội, thường phải đương đầu với nhiều tranh chấp bất công.  Đôi khi phải đối mặt với những hiểu lầm, vu khống, mạ lỵ.  Nếu không tập tánh kham nhẫn chịu đựng thì chỉ chuốc lấy những phiền não khổ đau. Là người tu giải thoát, hành giả lại cần phải tu hạnh kham nhẫn nhiều hơn, để vượt qua những trở ngại khi lạnh, lúc nóng. Kham nhẫn chịu đựng những khi đói khát hay kham nhẫn với những sự xúc chạm do ruồi, muỗi, các loài bò sát mang tới. Hành giả cũng phải tập tánh kham nhẫn các cảm thọ về thân, những cảm thọ thống khổ, khi bị đau nhức khốc liệt v.v… Nếu không kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não sẽ sanh khởi. Chịu đựngvượt qua được những khó khăn đó, thì lậu hoặc do kham nhẫn được đoạn trừ.

         5. Lậu hoặc được đoạn trừ do “Tránh né”: Có những thứ mang lại nguy hiểm phiền não, mà hành giả không thể đối trị bằng “tri kiến, phòng hộ, thọ dụng hay kham nhẫn” mà phải “như lý tác ý tránh né” như tránh voi dữ,  ngựa dữ, bò dữ, chó dữ, rắn rít, rừng rậm gai góc, hố sâu, vực thẳm, vũng lầy. Tránh xa những người say sưa, hung bạo, điên rồ. Tránh lai vãng những nơi nguy hại gây tai tiếng. Nếu không tránh né như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên. Nhờ tránh né,  mà hành giả tránh được những nguy hiểm, lo âu, sợ hãi, tránh được những bực bội phiền não.  Cho nên mới nói các lậu hoặc nhờ “tránh né” mà được đoạn trừ.

        6. Lậu hoặc được đoạn trừ do “Trừ diệt”:  Ở đây, hành giả phải thường biết và thường quan sát trạng thái tâm của mình, không chấp nhận dục niệm, sân niệm hay các ác bất thiện pháp khởi lên.  Hành giả phải “như lý tác ý” tận diệt, từ bỏ những tà pháp kể trên, không cho tồn tại. Nếu không trừ diệt thì các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên. Cho nên hành giả phải biết pháp nào cần giữ và pháp nào phải đoạn trừ, diệt bỏ. Như vậy thì các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy mới không còn nữa.

         7.  Lậu hoặc được đoạn trừ do “Tu tập” :  Pháp thứ bảy  “Tu tập Thất Giác Chi”.  Thất giác chi là bảy Bồ đề phần, là nhóm thứ sáu trong 37 Bồ đề phần, còn gọi là 37 phẩm trợ đạo. Thất giác chi gồm cóNiệm giác chi, Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Hỉ giác chi, Khinh an giác chi, Định giác chi, và Xả giác chi.  

          1-7: Niệm Giác Chi:yếu tố đầu tiên cần phải khởi lên và tu tập viên mãn mới đưa đến giác ngộ. Niệm Giác Chi này chính là Chánh Niệm trên lộ trình tu tập pháp Bát Chánh Đạo. Chánh niệm thực hành cần có bốn: Niệm Thân là nhớ đến chú tâm quan sát các cảm giác nơi thân. Niệm Thọ là nhớ đến chú tâm quan sát nơi thọ. Niệm Tâm là nhớ đến chú tâm quan sát nơi tâm. Niệm Pháp là nhớ đến chú tâm quan sát nơi pháp.

          Tu tập Chánh niệm hay Niệm Giác Chirèn luyện tâm từ thói quen vọng động tham sân si nhiều lậu hoặc đã ăn sâu từ vô thủy…  nay có thói quen mới tĩnh lặng với cái Biết Không Lời.

           2-7: Trạch pháp giác chi: Khi thành tựu Niệm Giác Chi, nghĩa là Niệm Giác đã đầy đủ rồi, thì hành giả có sự phân biệt tư duy, suy lường pháp môn nào thiện, pháp môn nào bất thiện, pháp môn nào đưa đến giải thoát. Sự quan sát thông tuệ này được xem là huệ căn, huệ lực. Một sự chọn lựa đến chỗ cuối cùng không còn sự chọn lựa nào khác. Điều này có nghĩa là hành giả đã thông đạt tất cả pháp môn và chọn ra được một pháp môn thích hợp với căn cơ của mình để hạ thủ công phu. Sự chọn lựa theo Chánh kiến này  gọi là Trạch Pháp Giác Chi.

          3-7: Tinh tấn giác chi: Khi đã chọn lựa pháp môn tu tập rồi thì nỗ lực tinh tấn hành trì. Tinh tấn trong bốn oai nghi, dùng phương pháp Tứ Chánh cần để tu tập. Đó là ngăn ngừa ác tâm không để nó sinh khởichấm dứt ác tâm nào đã lỡ sinh khởi. Cố gắng phát khởi các thiện tâmduy trì các thiện tâm đó. Khi Niệm Giác Chi (Chánh Niệm) có mặt liên tục trên đối tượng là hành giả có đủ bốn yếu tố Chánh Cần. Sự nỗ lực tinh tấn trong lúc hành thiền đòi hỏi hành giả sự khéo léo điều chỉnh để quân bình trạng thái tâm, không quá nhiều nỗ lực cũng không quá ít. Tinh tấn quá sức khiến tâm dao động ra khỏi đề mục tu tập. Còn như tinh tấn quá ít hay lơ là  khiến tâm dật vờ buồn ngủ.

          4-7: Hỷ Giác Chi: Khi Tinh tấn tu tập, dẹp được tham sân si là những pháp bất thiện thì có niềm hân hoan hớn hở trong tâm tự khởi lên. Đức Phật từng kể lại kết quả khi đạt sơ thiền, tâm của Ngài tràn đầy hỷ lạc. Hỷ lạc này là do Ngài “ly dục, ly bất thiện pháp” mà sinh. Khi đạt được những tầng thiền cao hơn thì hỷ lạc gia tăng thấm đẫm cả thân tâm. Sự hân hoan hỷ lạc của hành giả lúc này gọi là Hỷ Giác Chi.

           5.7: Khinh An Giác Chi:  Nhờ tinh tấn tu tập loại trừ các ác pháp tham, sân, si. Hành giả nhập vào sơ thiền có tầm có tứ. Nhờ duyên này mà các pháp khác cũng yên lặng, đó gọi là trạng thái thuận khinh an ở mức độ thứ nhất. Hành giả tiếp tục tinh tấn công phu, Ngôn hành, Ý hành trong tâm vắng bặt, hành giả thể nhập nhị thiền, tầm tứ yên lặng gia tăng mức độ khinh an thứ hai. Và cứ thế mức độ hỷ lạckhinh an mỗi lúc gia tăng nhiều hơn. Đến khi hơi thở ngưng từng chập, trong kinh gọi là “tịnh tức” thì thân tâm của hành giả khinh an đến mức tối diệu, không có khinh an nào khác vượt qua nó. Đó gọi là Khinh An Giác Chi.

             6.7: Định giác chi:  Hành giả lần lượt trải nghiệm qua bốn tầng thiền định: Sơ định, Nhị định, Tam định, Tứ địnhĐạt được tứ định, tâm hành giả hoàn toàn định tĩnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không vui, không buồn, không hạnh phúc cũng không khổ đau nghĩa là Tâm được giải thoát, được hoàn toàn tự do không dính mắc với bất kỳ tướng trạng nào. Tâm lúc bấy  giờ là Tâm Vô lậu, là an trụ tâm. Tâm tĩnh lặng trống rỗng với dòng nhận thức biết không lời gọi chung là Định bất động hay Định Giác Chi.

            7.7: Xả giác chi: Tâm định tĩnh, bình thản, tự tại, là tâm giải thoát không hệ lụy với mọi đối tượng. Tất cả mọi pháp đều bình đẳng nên không có gì buông cũng không có gì giữ. Tâm thanh thản, an trú vào tánh tịch tịnh… thì đó gọi là Xả Giác Chi. Tâm Xả rất quan trọng. Hành giả an trú trong tâm Xả khi học pháp môn nào hay làm bất cứ việc gì đều thản nhiên không vướng bận.

          Tóm lại tu tập, duy trì Chánh Niệm, an trú trong tâm Xả qua pháp “Thất Giác Chihành giả loại trừ được tham sân si tức ly dục ly bất thiện pháp. Như vậy các lậu hoặc do tu tập được diệt trừ.

       

KẾT LUẬN

          Tập khí, lậu hoặc là nguồn gốc tạo Nghiệp chịu cảnh Sanh, Già, Bệnh, Chết tức luân hồi sanh tử. Ngoài ra, còn những thứ khác tiềm ẩn trong tâm của chúng sanh đó là Kiết sử, Tùy miên cũng là bà con dòng họ của lậu hoặc.

         Vì lậu hoặcnguyên nhân gây khổ đau phiền não không phải chỉ một đời hiện tại, mà nó còn là nhân tố khiến chúng sanh phải chịu trầm luân khổ lụy trong nhiều đời nhiều kiếp vị lai. Những ai tỉnh ngộ muốn được giải phóng ra khỏi ngục tù sanh tử thì mới tìm cách tu tập. Còn đa phần chúng sanh mải mê ngụp lặn hưởng thụ ái dục, tạo vô số nghiệp lành hay nghiệp dữ. Nghiệp cũng là tên gọi khác của lậu hoặc.

        Đức Phật là bậc đại giác ngộ, đã thực chứng trên thân và tâm, đã tìm ra con đường giải thoát. Nhưng trước đó, Ngài cũng chỉ là một con người bình thường phải chịu cảnh “bị sanh, bị già, bị chết” như bao nhiêu chúng sanh khác.  Vì muốn thoát ra khỏi cái vòng lẩn quẩnsanh, già, bệnh, chết” , Đức Phật đã từ bỏ ngai vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con xinh…  xuất gia tìm đạo giải thoát cho mình và cho chúng sanh.  Trải qua nhiều gian lao thử thách, Ngài đã thanh lọc được “hồ nước đục” thành “hồ nước trong”, và sau cùng chứng được “cái vô sanh”. Đã vô sanh thì không có già, không có chết. Không chết nghĩa là “bất tử”.

          Muốn trở thành con người bất tử, Đức Phật dạy phải tận diệt lậu hoặc. Và Ngài đã đưa ra nhiều phương pháp tu tập, trong số đó có bài kinhTất Cả Các Lậu Hoặc”. Bài kinh này có ghi lại bảy pháp tu diệt trừ các lậu hoặc. Mặc dù Đức Thế Tôn giảng cho các vị  tỳ-kheo, nhưng là cư sĩ chúng ta cũng có thể áp dụng được.

        Riêng về pháp thứ bảy, là pháp “tu tập diệt lậu hoặc”, Đức Phật dạy chúng ta thực hànhThất Giác Chi”. Như đã trình bày ở trên “Thất giác chi” gồm bảy chi phần: Niệm Giác Chi, Trạch Pháp Giác Chi, Tinh Tấn Giác Chi, Hỷ Giác Chi, Khinh (an) Giác Chi, Định Giác Chi, Xả Giác Chi.

        Sau khi tìm hiểu ý nghĩa của bảy chi này. Chúng ta thấy có hai luận hướng, hai cái nhìn. Một cái nhìn thuộc về “bản thể luận” và cái nhìn thuộc về “hiện tượng luận”.

        - Về mặt hiện tượng luận, thì bảy chi có sự khác biệt về ý nghĩa, nên hành giả phải tu tập từng pháp và thành tựu theo thứ tự thời gian .

        - Về mặt bản thể luận, thì ngay trong Chánh Niệm (Niệm Giác Chi) đã có sáu chi kia rồi.  Vì nếu thiếu Trạch Pháp Giác Chi thì sẽ không có Chánh Niệm. Nếu thiếu Tinh Tấn Giác Chi cũng không đạt được Chánh Niệm. Nếu thiếu Hỷ Giác Chi hay Khinh An Giác Chi cũng không có Chánh Niệm. Nếu không có Định hay không có Xả Giác Chi thì không có Chánh Niệm - Ngược lại nếu không đạt được Chánh Niệm thì các chi kia cũng không xuất hiện. Như vậy nếu hành giả thành tựu một giác chi nào trong số bảy giác chi thì cũng có nghĩa là hành giả đã thành tựu luôn bảy giác chi. Đây là sự liên hệ giữa các pháp với nhau về mặt duyên khởi theo bản thể luận.

         Về câu hỏi: “Làm thế nào để đoạn trừ các lậu hoặc ?” . Thực ra có nhiều pháp. Pháp “Thất Giác Chi” là pháp nằm trong số 37 pháp (trợ đạo) mà Đức Thế Tôn đã giảng dạy. Nhưng nhìn chung thì các pháp tu tập đều nằm trong tam lậu học: Giới-Định-Huệ.

         Bài viết về “các pháp đoạn trừ các lậu hoặc” chỉ được soạn ở mức độ căn bản cho những ai mới bước vào cửa đạo, nên chắc chắn còn nhiều thiếu sót, kính thỉnh chư tôn đức từ bi giảng dạy thêm.

        Trong thời gian đại dịch Covid-19 vẫn còn hoành hành. Kính cầu nguyện bình an đến với tất cả mọi người. Khi ra khỏi nhà xin nhắc quý vị nhớ mang khẩu trang và ráng giữ khoảng cách 2 mét (social distancing). Về nhà nhớ rửa tay và thoa alcohol-aloe vera thật kỷ để tránh bị lây lan.

 

                                 Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

                                                THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

                                                 12-6-2020

                                               (Chân Tâm thiền đường)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4487)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2679)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5098)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3741)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3790)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3148)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4027)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 4950)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3454)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6610)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3911)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3147)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3056)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2891)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5773)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4546)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3434)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2826)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3236)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4354)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5596)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6524)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3632)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4466)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4508)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3912)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3338)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4492)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 5932)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5757)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3567)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4599)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4391)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4446)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4196)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4516)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8096)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3862)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5643)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5092)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6721)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6103)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5872)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5656)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6136)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6658)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4876)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5457)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6272)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3686)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5298)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 5980)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9193)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6285)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5854)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7332)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7166)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5074)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 7941)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant