Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đức Phật Cũng Cạo Tóc Như Những Tỳ-kheo Khác

08 Tháng Bảy 202019:56(Xem: 6074)
Đức Phật Cũng Cạo Tóc Như Những Tỳ-kheo Khác
Đức Phật Cũng Cạo Tóc Như Những Tỳ-kheo Khác 

Thích Trung Hữu


Đức Phật Cũng Cạo Tóc Như Những Tỳ-kheo Khác

Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến một số người băn khoăn không biết Đức Phật ngày xưacạo tóc như những Tăng Ni khác hay không.


Theo kinh điển thì Đức Phật cũng mang hình thức “đầu tròn áo vuông”. Bài viết này xin được nêu ra một số bản kinh để chứng minh cho điều này.

Kinh Ambattha (A-ma-trú) thuật lại rằng: Một thời Thế Tôn đang du hành tại nước Kosala (Câu-tát-la), và đến tại một làng Bà-la-môn ở Kosala tên là Icchānankala. Bà-la-môn Pokkharasàdi trong làng nghe đồn Sa-môn Gotama là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nên muốn đến yết kiến. Ông bèn sai đệ tử là thanh niên Ambattha đi đến gặp Đức Thế Tôn để tìm hiểu xem Ngài có được tốt đẹp như lời đồn không. Khi gặp Thế Tôn, thanh niên Ambattha đi qua đi lại, thốt ra những lời hỏi thăm nhát gừng trong khi Thế Tôn đang ngồi. Thấy vậy, Thế Tôn nói với thanh niên Ambattha:

- Có phải, đối với các bậc Bà-la-môn Trưởng lão, đứng tuổi, các bậc giáo sư và Tổ sư, ngươi cũng nói chuyện như vậy, như ngươi đã đi qua lại thốt ra những lời hỏi thăm nhát gừng trong khi Ta đang ngồi, hay đứng lại thốt ra những lời hỏi thăm nhát gừng trong khi Ta đang ngồi?

- Không phải vậy, này Gotama. Phải đi mà nói chuyện với một vị Bà-la-môn, này Gotama, nếu vị ấy đang đi. Phải đứng mà nói chuyện với một vị Bà-la-môn, này Gotama, nếu vị ấy đang đứng. Chỉ với những vị Sa-môn hèn hạ, trọc đầu, đê tiện, đen đủi, sanh từ nơi chân của bà con ta, thì ta mới nói chuyện như vậy, như với ngươi, Gotama(1).

Kinh Sangārava thuật lại rằng: Một thời Thế Tôn du hành trong nước Kosala. Lúc bấy giờ, một nữ Bà-la-môn tên Dhananjāni (Đa-na-xa-ni) có lòng tín thành Phật, Pháp và Tăng. Rồi nữ Bà-la-môn khi bị trượt chân, thốt lên ba lần cảm hứng ngữ: “Đảnh lễ Đức Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!”. Thanh niên Bà-la-môn tên Sangàrava là người tinh thông ba tập Veda, nghe nữ Bà-la-môn Dhananjāni nói như vậy liền tức giận nói: “Nữ Bà-la-môn Dhananjāni này thật là hạ liệt, vì rằng trong khi các Bà-la-môn đang còn sống lại nói lời tán thán Sa-môn trọc đầu ấy”(2).

Kinh Dhananjāni kể rằng: Một thời Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá). Lúc bấy giờ, nữ Bà-la-môn Dhananjāni, có lòng tín thành đối với Phật, Pháp và Tăng. Khi bưng cơm cho chồng đã hứng khởi thốt lên ba lần lời cảm hứng: “Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!”. Nghe nói vậy, Bà-la-môn nói với nữ Bà-la-môn Dhananjāni: “Như vậy, trong mọi thời, mọi dịp, kẻ hạ tiện này nói lời tán thán vị Sa-môn trọc đầu ấy”(3).

Kinh Sundarika kể rằng: Một thời Thế Tôn ở giữa dân tộc Kosala. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja làm lễ cúng dường lửa. Rồi Bà-la-môn sau khi tế lửa, làm lễ cúng dường lửa xong, từ chỗ ngồi đứng dậy, nhìn xung quanh tất cả bốn phương và nghĩ: “Ai có thể hưởng thọ món ăn cúng tế còn lại này?”. Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja thấy Thế Tôn đang ngồi dưới gốc cây, đầu được bao trùm liền tay trái cầm món ăn cúng tế còn lại, tay phải cầm bình nước đi đến Thế Tôn. Thế Tôn nghe tiếng chân của Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja liền tháo đồ trùm ở đầu. Và Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja nghĩ: “Đầu vị này trọc, vị này là người trọc đầu”, nghĩ vậy, muốn trở lui”.(4)

Kinh Khomadusa kể rằng: Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Sakka, tại thị trấn tên là Khomadussa. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào thị trấn Khomadussa để khất thực. Lúc bấy giờ các Bà-la-môn gia chủ ở Khomadussa đang tụ họp tại hội trường để giải quyết một vài vấn đề và trời đang mưa nhỏ hột. Rồi Thế Tôn đi đến hội trường ấy. Các Bà-la-môn gia chủ ở Khomadussa thấy Thế Tôn từ xa đi đến, bèn nói: “Những Sa-môn đầu trọc ấy là ai?”.(5)

Qua những bài kinh trên, chúng ta thấy rằng hình ảnh Đức Phật với đầu được cạo trọc là một hình ảnh bình thường trong mắt mọi người lúc bấy giờ. Kinh Giới phân biệt kể rằng: Tôn giả Pukkusati một lần tình cờ gặp Đức Thế Tôn tại nhà thợ gốm Bhaggava nhưng vẫn không biết đó là Thế Tôn: “Này Tỷ-kheo, trước đây ông đã thấy bậc Thế Tôn ấy chưa? Và nếu thấy, ông có nhận ra được không? - Thưa Hiền giả, trước đây tôi chưa từng thấy bậc Thế Tôn ấy. Và nếu thấy, tôi không nhận ra được”.(6) Điều đó cho thấy rằng về mặt hình tướng, Đức Phật cũng giống như những tu sĩ Phật giáo khác. Mặc dù Đức Phật có tướng tốt nhục kế trên đỉnh đầu nhưng đó có thể là bởi đỉnh đầu của Ngài chỉ hơi nhô cao lên một chút thôi, chứ không phải một búi tóc cao, to thường thấy ở các hình tượng hay tranh ảnh về Ngài. Nếu Đức Phật để tóc một cách đặc biệt như những hình tượngchúng ta thờ ngày nay, chắc chắn Tôn giả Pukkusati vừa nhìn thấy đã biết ngay đó là Đức Phật.


Không chỉ có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cạo tóc, hình thức “đầu tròn áo vuông” còn là truyền thống của ba đời chư Phật. Kinh Ghaṭīkāra ghi rằng: Thuở xưa vào thời Đức Phật Kassapa (Ca-diếp) có người thợ gốm tên là Ghaṭīkāra. Thanh niên Jotipāla là người bạn chí thân của thợ gốm Ghaṭīkāra. Vì muốn cho bạn mình được lợi ích nên thợ gốm Ghaṭīkāra rủ thanh niên Jotipāla đi đến yết kiến Thế Tôn Kassapa, nhưng thanh niên Jotipāla không có lòng tin và nói với thợ gốm Ghaṭīkāra rằng: “Thôi vừa rồi, bạn Ghaṭīkāra, yết kiến Sa-môn trọc đầu như vậy để làm gì?”.(7)

Nếu Đức Phật cũng cạo tóc, cũng “đầu tròn áo vuông” như những Tăng Ni khác thì tại sao các nghệ nhân, họa sĩ khi tạo hình tượng của Ngài lại có búi tóc nhô cao như vậy? Đó là vì khi tạo hình Đức Phật, người ta muốn khắc họa nổi bật, thể hiện rõ nét tướng nhục kế và tướng tóc xoăn thành vòng theo chiều bên phải của Đức Phật để ai nhìn vào đều có thể biết được Ngài có những tướng đó. Đây là một sự “cách điệu hóa” được phép sử dụng trong lĩnh vực nghệ thuật nhằm nhấn mạnh hay chuyển tải một ý nghĩa nào đó của đối tượng nghệ thuật. Cùng ý nghĩa này, ta thấy các nghệ nhân thường hay vẽ một vòng hào quang bao quanh đầu Đức Phật hay các vị Bồ-tát, trong khi hầu hết người thường đều không thể nhìn thấy hào quang.


Theo lịch sử Đức Phật Thích Ca, sau khi vượt thành Ca-tì-la-vệ, Ngài đã cắt tóc xuất gia, vậy thì không lý nào sau khi thành đạo Ngài lại để tóc. Khi đắc đạo, hóa độ đệ tử, thành lập Tăng đoàn, Thế Tôn và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni mỗi nửa tháng đều cạo tóc. Nhân đây người viết cũng mạn phép xin có một ý kiến nhỏ như sau. Mỗi nửa tháng Tăng Ni đều cạo tóc một lần vào ngày 14 và 30 âm lịch, trước khi làm lễ sám hối và bố-tát, đây là quy định của Tăng đoàn từ xưa đến nay. Nhưng gần đây chúng tôi thấy rằng một số Tăng Ni rất tùy tiện trong việc cạo tóc. Họ muốn cạo khi nào thì cạo chứ không cần đúng ngày quy định. Có người mỗi tuần cạo một lần. Có người trước khi dự đám xá hay lễ lộc gì thì cạo tóc… cho đẹp (do vậy mà nhìn vào một buổi lễ người ta thấy chư Tăng Ni có người tóc dài có người tóc ngắn rất không thuận mắt). Chúng ta nên biết rằng việc cạo tóc đối với người tu không hề giống như người ngoài đời hớt tóc. Hớt tóc thì khi nào thích thì hớt và hớt kiểu gì cũng được. Nhưng cạo tóc là một pháp tu, cạo tóc không phải để cho sạch, cho đẹp mà là để “hủy hình” nhằm trừ bỏ tham ái. Chúng ta phải cạo tóc đúng nửa tháng là để giữ cái “đạo thường”, không nôn nóng, không giải đãi, không rơi vào hai cực đoan bất cập và thái quá. Nếu chúng ta không hiểu được những điều này thì hình thức “đầu tròn áo vuông” có lẽ không còn ý nghĩa gì nhiều nữa. 
 
Thích Trung Hữu
_______
(1) Kinh Trường bộ, kinh A-ma-trú số 3.
(2) Kinh Trung bộ, kinh Sangàrava số 100.
(3) Kinh Tương ưng bộ 1, chương 7: Tương ưng Bà-la-môn, phẩm A-la-hán thứ nhất.
(4) Kinh Tương ưng bộ 1, chương 7: Tương ưng Bà-la-môn, phẩm A-la-hán thứ nhất.
(5) Kinh Tương ưng bộ 1, chương 7: Tương ưng Bà-la-môn, phẩm Cư sĩ thứ hai.
(6) Kinh Trung bộ, kinh Giới phân biệt số 140.
(7) Kinh Trung bộ, kinh Ghaṭīkāra số 81.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14597)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14034)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14924)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16534)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29846)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16191)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15521)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14863)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14855)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17854)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15551)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38627)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26694)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39614)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50714)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38701)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35000)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18275)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16443)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42361)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39203)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35574)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17437)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46473)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17132)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28474)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18967)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17566)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17090)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17525)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16503)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16853)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30802)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16920)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18479)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18426)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17365)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18138)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17046)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23441)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16970)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17443)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17635)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17043)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15715)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18003)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17372)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17160)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29480)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27682)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18145)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16086)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15329)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 22982)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14805)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55075)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14171)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13236)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14148)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15488)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant