Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Thân Của Chư Phật

03 Tháng Tám 202012:45(Xem: 3831)
Pháp Thân Của Chư Phật
PHÁP THÂN CỦA CHƯ PHẬT

Chân Hiền Tâm

Già Lam  Hương Thiền


Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh. Tức thể, tướng và dụng của nó đã hiện đầy đủ.

Không phải pháp thân của chư Phật khác pháp thân của chúng sinh. Khác hay không chỉ ở mặt hiện hay ẩn, tướng và dụng. Còn về mặt tánh thể thì “Tướng tự thể chân như của tất cả phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và chư Phật không có tăng giảm, không có mé trước sinh, không có mé sau diệt, rốt ráo thường hằng”1.     

Nói Pháp vì thân được trang nghiêm bởi vô lượng vô biên đại công đức như mười lực, bốn vô úy v.v… Nói Thân vì đó là nơi nương tựa, là chỗ tích tụ… Nói Pháp thân của chư Phật là muốn nói đến loại thân tích tụ vô lượng vô biên các thứ công đức không thể nghĩ bàn, với vô vàn diệu dụng không thể nói. 

Pháp thân ấy thế nào? 

1- Không phải là đối tượng nhận biết của nghiệp thức 

Luận Đại thừa khởi tín nói: “Pháp thân của chư Phật không có sắc tướng đây kia đắp đổi qua lại cùng thấy”. Sắc tướng nói đây chỉ cho những gì có thể nhận biết bằng mắt. Đó là phần sở kiến của một cái năng kiến. Do còn trong vòng đối đãi năng sở nên nói “đắp đổi qua lại cùng thấy”. Pháp thân không phải là sắc tướng, không phải là phần không sắc (như hư không hay những chỗ không sắc), cũng không phải là chính cái thấy hay sự nhận biết. Kinh Lăng nghiêm nói: “Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến”. Khi thấy được thực tướng của cái thấy (thấy tánh) thì cái thấy ấy không có thấy. Ngài Hám Sơn nói: “Chân thể pháp thân là nhất tâm chân nguyên, chẳng thuộc mê ngộ, chẳng mượn duyên sinh. Chính cái thiên chân này là chánh nhân Phật tánh, nên ý tóm kết đây là chuẩn mực để hiểu về chỗ rốt ráo2. Nói đến pháp thân là nói đến cội nguồn của tất cả pháp. Đó là bản thể của mọi hiện tượng mà ta đang thấy đây và cả những gì ta chưa đủ khả năng thấy. Cũng là cội nguồn từ đó có nghiệp thức của chúng sinh


Pháp thân này không do duyên sinh. Thứ gì do duyên sinh thì không phải là pháp thân. Song nó vẫn có mối liên hệ chặt chẽ giữa cái gọi là pháp do duyên sinhpháp thân

Nói lìa sắc tướng là nói pháp thân không phải là chính các sắc tướng ấy, nhưng cũng không ngoài các sắc tướng ấy, nên nói hay hiện sắc tướng. Vì pháp thân ấy chính là thể của sắc3. Như vàng làm đồ trang sức. Vàng không phải là vòng, là nhẫn, là dây chuyền v.v…, nhưng vàng không lìa những thứ đó. Nói cách khác, pháp thân chính là bản thể của mọi sắc pháp, như vàng là bản thể của đồ trang sức. Nhìn đồ trang sức mà trực nhận được vàng thì biết bản thể không lệ thuộc vào các sắc tướng như vòng, nhẫn v.v… Song ví dụ đó vẫn còn hạn chế để hiểu về pháp thân, vì vàng cũng như đồ trang sức đều là đối tượng được thấy (sở thấy) bởi một cái năng thấy, đều là pháp duyên sinh, trong khi pháp thân không thuộc duyên sinh, vượt ngoài năng sở, trùm khắp pháp giới. Vì thế, hiện nay bản chất này vẫn là một dấu hỏi rất lớn đối với một số người, đa số khác thì vẫn nhầm lẫn giữa cái gọi là tướng và tánh, hiện tượng với bản thể.

 “Vì từ xưa đến nay, sắc và tâm chẳng phải hai. Bởi sắc tánh chính là trí, nên thể của sắc không hình, gọi là trí thân. Bởi trí tánh tức là sắc nên gọi là pháp thân cùng khắp tất cả chỗ. Sắc sở hiện ấy không có phần hạn, tùy tâm hay hiện mười phương thế giới. Vô lượng Bồ-tát, vô lượng báo thân, vô lượng trang nghiêm, mỗi mỗi sai biệt, đều không có phần hạn mà chẳng ngăn ngại lẫn nhau. Đó chẳng phải là chỗ thức tâm phân biệt có thể biết, vì nó là dụng của chân như tự tại”. Đây là nói về phần sắc tướng ứng với tâm vô phân biệt của chư Phật. Do chân tâm trùm khắp vô ngại nên sắc nó hiện ra cũng viên dung, tự tại, vô ngại. Còn phần sắc tướng chúng ta thấy hiện nay là ứng với thức tâm phân biệt của chúng sinh, là sở kiến của cái thấy, tùy nghiệp của từng loài mà có cảnh giới sắc, thanh, hương, vị… khác nhau. 

Phần sắc tướngchúng sinh nhận biết thì có phần hạn, có ngăn ngại. Còn phần sắc tướng ứng với tâm thanh tịnh của chư Phật thì không có phần hạn, cũng chẳng ngăn ngại lẫn nhau, vì mỗi căn của Phật đều trùm khắp pháp giới. Đây là báo và hóa thân nói trong tam thân. Báo và hóa thân này không lìa pháp thân, như sóng và nước xưa nay không hai. Nói “sắc tánh tức là trí” là nói sắc tức là tâm, là muốn hiển cái không hai đó. Nói “trí tánh tức là sắc” là nói tâm tức là sắc, cũng muốn hiển cái không hai đó, như nước có khắp trong tất cả sóng. Tánh sắc, tánh trí là chỉ cho bản giác trí tâm

Vô lượng Bồ-tát… là muốn nói đến tác dụng của báo thân. Đó là đại dụng cơ cảm của báo thân, đều có thể tùy duyên mà ứng tức khắc. Đây là dụng của chân như, nên không phải là chỗ thấy của thức tâm phân biệt, là vọng tâm chúng ta đang dùng hiện nay.

Các tướng sai khác của pháp thân   

Theo luận Thành duy thức, pháp thânba tướng sai khác: Tự tánh thân, Thọ dụng thânBiến hóa thân.   

1- Tự tánh thân là pháp giới chân tịnhNhư Lai đã chứng đắc, là chỗ nương bình đẳng của Thọ dụng thânBiến hóa thân. Thân này vắng lặng, không có biên tế, lìa tất cả tướng, bặt mọi hý luận, là thực tánh bình đẳng của tất cả pháp. Phân theo tam thân, đó chính là pháp thân, chỉ cho thể tánh không của vạn pháp, cũng chính là tướng không nói trong Tâm kinh Bát-nhã, là Phật tánh nói trong kinh Đại bát Niết-bàn, là cái “không” chân như nói trong luận Đại thừa khởi tín.      

2- Thọ dụng thân có hai, là Tự thọ dụng thânTha thọ dụng thân.

- Tự thọ dụng thân là thân tự thọ dụng pháp lạc rộng lớn. Các Đức Như Lai trải qua vô số kiếp tu tập vô lượng tư lương, vô lượng phước đức, trí tuệ, giúp làm phát sinh bốn trí Bồ-đề và vô biên công đức chân thật, thành tựu sắc thân rất viên mãn, thanh tịnh, thường hằng biến khắp, tương tục lặng lẽ, cùng tột đời vị lai, thường tự thọ dụng pháp lạc rộng lớn.

- Tha thọ dụng thân là thân giúp người thọ dụng pháp lạc rộng lớn. Các Đức Như Lai do năng lực của Bình đẳng tánh trí, ở cõi thuần tịnh, thị hiện công đức thanh tịnh vi diệu, vì hàng Bồ-tát Thập địahiện đại thần thông, chuyển bánh xe pháp, dứt trừ lưới nghi, khiến họ thọ dụng pháp lạc Đại thừa

Đây chính là báo thân nói trong tam thân.   

3- Biến hóa thân là thân biến hóa ở các cõi. Chư Như Lai, do năng lực của Thành sở tác trí, có thể biến hiện ra vô lượng hóa thân theo loài hữu tình, tịnh có, uế có. Cũng tùy theo cơ nghi của chúng Bồ-tát chưa đăng địa, cùng hàng Nhị thừa và một loại Dị sinh mà hiện thần thông nói pháp, khiến họ đều được lợi lạc. Đây là hóa thân nói trong tam thân

Tóm lại, ba thân sai biệt của pháp thân đều có đầy đủ vô lượng vô biên công đức, nhưng mỗi thân có khác. 

Tự tánh thân thì chỉ có công đức vô vi chân thật, lìa mọi tạp nhiễm, làm chỗ nương cho các thiện, nhưng không có tướng dụng sai khác của sắc tâm. Tự tánh thân này chính là phần tánh thể không tăng không giảm khi nói đến tánh thể của vạn pháp

Tự thọ dụng thân thì có đủ vô lượng các thứ công đức chân thật của sắc tâm thù diệu.

Tuy thân này của chư Phật không giống nhau nhưng đều vô biên và không chướng ngại lẫn nhau.  

Tha thọ dụng thânBiến hóa thân thì chỉ có vô biên công đức hóa tướng của sắc thân tương tợ, với tác dụng lợi lạc cho loài hữu tình. Hai thân này tùy theo các loài chư Như Lai hóa độ mà sự biến hóa có chung và không chung. 

Nếu loài hữu tình được hóa độ là chung, đồng chỗ, đồng thời… thì chư Như Lai đều biến ra thân và độ có tướng trạng tương tợ, không chướng ngại nhau, triển chuyển xen nhau làm tăng thượng duyên, khiến trên tự thức của các loài được hóa độ đó biến hiện ra Phật hóa thân cùng Phật hóa độ. Chúng sinh đó nghĩ Phật thân của chư Phật chỉ là một, kỳ thật là do nhiều Phật biến ra. 

Nếu loài hữu tình được hóa độ là không chung thì dù chúng sinh ấy có thấy mười phương chư Phật hiện ra, thực tế cũng chỉ là sự hóa hiện của một Phật. 

Sở kiến của chúng sinh với Tha thọ dụngBiến hóa thân của chư Phật

Sở kiến là những gì mà loài hữu tình nhận biết được qua các căn, đó là đối tượng của các căn. Song dùng sở kiến mà không dùng các từ khác như sở nghe v.v… là có lý do sâu xa ở mặt tu chứng, ở đây không bàn tới, chỉ y các bậc cổ đức mà lấy nghĩa chính là đối tượng của cái thấy. 


Sở kiến này, tùy nghiệp thức của từng loài mà có sự không đồng. Như loài người thấy nước là nước nhưng ngạ quỷ lại thấy là lửa hoặc máu. Đó là do nghiệp thức của từng loài mà sở kiến thành khác nhau. Đối với việc thấy Phật cũng vậy, tùy nghiệp thức từng loài mà việc thấy Phật này cũng không đồng. Luận Đại thừa khởi tín phân phần sở kiến thấy Phật này ra làm hai. Một, là sở kiến của phàm phuNhị thừa. Hai, là sở kiến của Bồ-tát. 

1- Sở kiến của phàm phuNhị thừa

Luận nói: “Y nơi phân biệt sự thức, gọi là ứng thân. Vì không biết do chuyển thức hiện nên thấy từ ngoài đến. Nhận lấy phần hạn của sắc nên không thể biết hết”. Phàm phu là chỉ cho người đời. Nhị thừa là chỉ cho Thanh vănDuyên giác. Phàm phu thì gần như không ai biết gì về các thức. Nhị thừa thì chỉ mới biết đến thức thứ sáu, chưa biết có thức thứ bảy và thứ tám, chưa thấu nghĩa duy tâm sở hiện, không biết các trần chỉ là thức, nên chấp ngoài tâm thật có cảnh giới, thấy thật có Phật Thích Ca với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, chấp có sinh tử đáng chán, có Niết-bàn đáng vui, không rõ đạo lý duy tâm. Nói Y phân biệt sự thức mà thấy là vậy. Phân biệt sự thức là chỉ cho thức thứ sáu. 


Chuyển thức là do tự tánh chân như không tánh, bất giác tâm động mà thành chuyển thức. Thức này, chân vọng hòa hợp. Từ chuyển thứchiện thức, hiện các cảnh giới (như ngủ rồi mộng). Do chưa thấu được phần chuyển thức này, không biết mọi cảnh giới đều do thức biến, nên thấy mọi thứ thật từ ngoài đến. Đây là cái thấy của đa phần chúng ta hiện nay. Thấy ta, thấy người và thấy mọi thứ đều có phần hạn như thật, rồi chấp vào những phần hạn ấy mà hành tác, nên “càng không thể biết hết”, là không thể tường tận được thực chất của vạn pháp.

Hỏi: Nếu đó là dụng của chân như trong tự tâm của chúng sinh, vậy thì liên quan gì đến báo thânhóa thân Phật?

Đáp: Chân tâm của chúng sinh và thể của chư Phật hoàn toàn không có sai khác. Chúng sinh mê chân khởi vọng, nên chân như chỉ hiện nhiễm tướng, chẳng hiện được chân dụng. Cần có bản giác nội huân vọng tâm, mới có thể có chán và cầu, là chán cái khổ sinh tử, cầu cái vui Niết-bàn. Nhờ chán và cầu này mà dụng của chân như được hiển. Chán cầu kém thì tướng dụng thô. Chán cầu dần tăng thì dụng cũng dần tế. Dần dần như thế cho đến nguồn tâm, vô minh hết, chán cầu đều mất, thủy giác đồng với bản giác, dụng lại về thể, bình đẳng bình đẳng

Trong giai đoạn dụng chân như của chúng sinh chưa thể hiển thì đó là lúc cần có dụng chân như của chư Phật trợ duyên, là lúc Tha thọ dụng thân (báo thân) và Biến hóa thân (hóa thân) của Phật khởi tác dụng. Luận Đại thừa khởi tín nói: “Dụng chân nhưchư Phật Như Lai khi còn tại nhân địa, phát đại từ bi, tu các ba-la-mật, nhiếp hóa chúng sinh, lập đại thệ nguyện muốn độ thoát hết tất cả chúng sinh trong các cõi, không giới hạn kiếp số, đến cùng tận vị lai. Vì coi tất cả chúng sinh như thân mình mà không nắm giữ tướng chúng sinh. Do đâu như thế? Vì như thật biết tất cả chúng sinh cùng với thân mình chân như bình đẳng, không có sai khác. Vì có trí đại phương tiện như vậy nên trừ diệt được vô minh, thấy pháp thân mình. Tự nhiên có mọi thứ nghiệp dụng4 không thể nghĩ bàn. Liền cùng chân như đồng khắp tất cả chỗ. Cũng không có tướng dụng có thể được. Vì sao? Vì thân của chư Phật Như Lai chỉ là thân trí tướng pháp thân đệ nhất nghĩa đế, không có cảnh giới thế đế, lìa hành tác, chỉ tùy chúng sinh thấy nghe mà được lợi ích, nên nói là dụng5.

Đoạn luận này có vài điểm cần lưu ý: Tự nhiên có mọi thứ nghiệp dụng không thể nghĩ bàn là dụng này không do Phật tác ý mà có, chỉ như trống trời ma-ni vô tưthành sự, nên nói lìa hành tác. Cũng không có tướng dụng có thể được, là dụng tuy có mà thể thường tịch diệt. Chỉ tùy duyên khởi dụng, nên dụng mà không dụng, như nước tùy duyên thành sóng mà thể hằng tịch diệt. Nếu phế bỏ cơ cảm thì Như Lai chỉ là diệu lý bản trí, hoàn toàn không có tướng thế đế sinh diệt mà có ứng hóa thân. Nhưng vì có cơ cảm là do khi chư Như Lai còn tại nhân địa, đã tu các ba-la-mật, phát đại thệ nguyện độ thoát chúng sinh trong các cõi, mà khi đủ cơ cảm thì dụng chân như này liền hiện, khiến chúng sinh thấy được báo hóa thân mà nhận sự hộ trì cùng giáo hóa của chư Phật. 

Cho nên, tuy là sở kiến của phàm phuNhị thừa nhưng lại chính là ứng hóa thân của chư Phật. Bi và trí của chư Phật làm tăng thượng duyên, chủng tử cơ cảm của chúng sinh làm nhân duyên, nương vào bản chất Phật trên, tự tâm biến ra hình tượng. Chỗ “không một không khác” này là thứ khó nghĩ bàn đối với tâm thức của người đời.

Luận nói tiếp: “Lại, sở kiến của phàm phu là sắc thô, tùy lục đạo mà thấy các thứ dị loại không đồng, không phải là tướng thọ lạc, nên nói ứng thân”. Tuy đều là ứng hóa thân của Phật, nhưng tùy nghiệp lực trói buộc của từng loài, từng người, chưa giác ngộ, hoặc đã giác ngộ v.v… mà ứng hóa thân thành có khác. Tổ Hiền Thủ nói: “Như tập khí ở ba ác đạo, thấy thân Phật dài ba thước như chân voi đen. Như Đề-vi v.v… ở địa vị trời người thấy Phật là thần cây và thân thiên thần vv… Y theo đó thì biết chúng sinhlục đạo thấy Phật không đồng, đều không phải là tướng xuất thế, nên không phải là tướng thọ lạc. Hàng Nhị thừa thấy Phật là thân thánh nhân A-la-hán xuất thế, nên nói ứng thân6.

Tướng thọ lạc là chỉ cho báo thân. Chẳng phải là báo thân, nên nói ứng thân.     

2- Sở kiến của tâm Bồ-tát từ Sơ phát tâm đến Cứu cánh địa

Luận nói: “Sở kiến của tâm Bồ-tát từ Sơ phát tâm đến Cứu cánh địa, y nơi nghiệp thức, gọi là báo thân. Thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng hảo. Chỗ trụ y nơi quả cũng có vô lượng các thứ trang nghiêm, tùy chỗ mà thị hiện, không có bờ mé, chẳng thể cùng tận, lìa tướng phần hạn, tùy chỗ cảm ứng, thường hay giữ gìn chẳng hủy, chẳng mất. Công đức như thế đều nhân nơi các hạnh vô lậu ba-la-mật huân tập và sự huân tập không thể nghĩ bàn mà được thành tựu, đầy đủ vô lượng tướng lạc, nên nói báo thân7

Chư vị Bồ-tát này từ khi mới phát tâm Bồ-đề cho đến khi thành tựu quả vị Phật đều y nơi nghiệp thức mà quán thấy mọi hiện tượng. Y nghiệp thức thì biết các trần không ngoài duy thức, thảy đều duy tâm sở hiện, cũng quán thấy phần hạn là không phần hạn, mỗi một sắc tướng đều trùm khắp pháp giới, dung nhau vô ngại, tự tại khó nghĩ bàn. Do phần quán thấy đó mà tâm có chỗ tương ưng, cảm được báo thân của chư Phật. 

Báo thân đó, thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng v.v… là nói về chánh báo. Do thân không có phần hạn nên nói vô lượng sắc. Chỗ trụ y nơi quả là nói về y báo. Y báo cũng không có phần hạn, nên nói vô biên. Tùy chỗ thị hiện không có bờ mé… là nói đến phần hạn sắc của báo thân, không phải có phần hạn như hóa thân, mỗi sắc tướng thị hiện đều trùm khắp pháp giới. Tùy chỗ cảm ứng chẳng hủy, chẳng mất… là tùy nghiệp hạnh của người cảm mà ứng ra, đều thường trụ, vì chỗ này tam tai không thể phá hoại. Tất cả những công đức có được đó đều nhờ sự huân tập không thể nghĩ bàn mà được thành tựu. Chư Phật đã huân tập vô lượng hạnh vô lậu ba-la-mật như thế trong quá khứ mới được phần Thọ dụng thân này. Chư Bồ-tát do cảm ứng tương ưng, có thể nhận được phần giáo hóa từ thân Tha thọ dụng này. 
 
  Chân Hiền Tâm
Bài đọc thêm:

Tam thân của Đức Phật (Suzuki - Huỳnh Ngọc Chiến dịch)

Hành trình chứng ngộ Tam thân Phật
Tam Thân (Wikipedia)
______________
(1) Đại thừa khởi tín luận - Bồ-tát Mã Minh. Chân Hiền Tâm dịch và giải.   
(2) Đại thừa khởi tín luận trực giải - Đại sư Hám Sơn. 
(3) Đại thừa khởi tín luận - Bồ-tát Mã Minh. Chân Hiền Tâm dịch và giải. 
(4) Nghiệp đây là nghiệp thanh tịnh, không phải nghiệp trói buộc của chúng sinh.  
(5) Đại thừa khởi tín luận - Bồ-tát Mã Minh. Chân Hiền Tâm dịch và giải.   
(6) Đại thừa khởi tín luận nghĩa ký - Đại sư Hiền Thủ.  
(7) Đại thừa khởi tín luận - Bồ-tát Mã Minh. Chân Hiền Tâm dịch và giải.   
 
SÁCH THAM KHẢO
 
- Đại thừa khởi tín luận nghĩa ký - Đại sư Hiền Thủ.
- Đại thừa khởi tín luận trực giải - Đại sư Hám Sơn.
- Thành duy thức luận - HT.Thích Thiện Siêu dịch và chú. 
- Đại thừa khởi tín luận - Chân Hiền Tâm Việt dịch và giải thích.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13205)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19357)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24614)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15740)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37822)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13475)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13092)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17177)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13203)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17386)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21635)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13216)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14392)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12812)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13653)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28615)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23393)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34377)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28878)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32184)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11328)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12003)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26285)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17372)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14523)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34476)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13111)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12278)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13411)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40510)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26929)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14455)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13253)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13454)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12532)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13145)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12313)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11788)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12572)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17659)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12204)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12751)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18434)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14290)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12994)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11322)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12150)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13466)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10835)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11073)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10285)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28883)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25269)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26849)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25753)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18668)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 23023)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34535)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32166)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30374)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant