Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Pháp Thân Của Chư Phật

03 Tháng Tám 202012:45(Xem: 3732)
Pháp Thân Của Chư Phật
PHÁP THÂN CỦA CHƯ PHẬT

Chân Hiền Tâm

Già Lam  Hương Thiền


Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh. Tức thể, tướng và dụng của nó đã hiện đầy đủ.

Không phải pháp thân của chư Phật khác pháp thân của chúng sinh. Khác hay không chỉ ở mặt hiện hay ẩn, tướng và dụng. Còn về mặt tánh thể thì “Tướng tự thể chân như của tất cả phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và chư Phật không có tăng giảm, không có mé trước sinh, không có mé sau diệt, rốt ráo thường hằng”1.     

Nói Pháp vì thân được trang nghiêm bởi vô lượng vô biên đại công đức như mười lực, bốn vô úy v.v… Nói Thân vì đó là nơi nương tựa, là chỗ tích tụ… Nói Pháp thân của chư Phật là muốn nói đến loại thân tích tụ vô lượng vô biên các thứ công đức không thể nghĩ bàn, với vô vàn diệu dụng không thể nói. 

Pháp thân ấy thế nào? 

1- Không phải là đối tượng nhận biết của nghiệp thức 

Luận Đại thừa khởi tín nói: “Pháp thân của chư Phật không có sắc tướng đây kia đắp đổi qua lại cùng thấy”. Sắc tướng nói đây chỉ cho những gì có thể nhận biết bằng mắt. Đó là phần sở kiến của một cái năng kiến. Do còn trong vòng đối đãi năng sở nên nói “đắp đổi qua lại cùng thấy”. Pháp thân không phải là sắc tướng, không phải là phần không sắc (như hư không hay những chỗ không sắc), cũng không phải là chính cái thấy hay sự nhận biết. Kinh Lăng nghiêm nói: “Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến”. Khi thấy được thực tướng của cái thấy (thấy tánh) thì cái thấy ấy không có thấy. Ngài Hám Sơn nói: “Chân thể pháp thân là nhất tâm chân nguyên, chẳng thuộc mê ngộ, chẳng mượn duyên sinh. Chính cái thiên chân này là chánh nhân Phật tánh, nên ý tóm kết đây là chuẩn mực để hiểu về chỗ rốt ráo2. Nói đến pháp thân là nói đến cội nguồn của tất cả pháp. Đó là bản thể của mọi hiện tượng mà ta đang thấy đây và cả những gì ta chưa đủ khả năng thấy. Cũng là cội nguồn từ đó có nghiệp thức của chúng sinh


Pháp thân này không do duyên sinh. Thứ gì do duyên sinh thì không phải là pháp thân. Song nó vẫn có mối liên hệ chặt chẽ giữa cái gọi là pháp do duyên sinhpháp thân

Nói lìa sắc tướng là nói pháp thân không phải là chính các sắc tướng ấy, nhưng cũng không ngoài các sắc tướng ấy, nên nói hay hiện sắc tướng. Vì pháp thân ấy chính là thể của sắc3. Như vàng làm đồ trang sức. Vàng không phải là vòng, là nhẫn, là dây chuyền v.v…, nhưng vàng không lìa những thứ đó. Nói cách khác, pháp thân chính là bản thể của mọi sắc pháp, như vàng là bản thể của đồ trang sức. Nhìn đồ trang sức mà trực nhận được vàng thì biết bản thể không lệ thuộc vào các sắc tướng như vòng, nhẫn v.v… Song ví dụ đó vẫn còn hạn chế để hiểu về pháp thân, vì vàng cũng như đồ trang sức đều là đối tượng được thấy (sở thấy) bởi một cái năng thấy, đều là pháp duyên sinh, trong khi pháp thân không thuộc duyên sinh, vượt ngoài năng sở, trùm khắp pháp giới. Vì thế, hiện nay bản chất này vẫn là một dấu hỏi rất lớn đối với một số người, đa số khác thì vẫn nhầm lẫn giữa cái gọi là tướng và tánh, hiện tượng với bản thể.

 “Vì từ xưa đến nay, sắc và tâm chẳng phải hai. Bởi sắc tánh chính là trí, nên thể của sắc không hình, gọi là trí thân. Bởi trí tánh tức là sắc nên gọi là pháp thân cùng khắp tất cả chỗ. Sắc sở hiện ấy không có phần hạn, tùy tâm hay hiện mười phương thế giới. Vô lượng Bồ-tát, vô lượng báo thân, vô lượng trang nghiêm, mỗi mỗi sai biệt, đều không có phần hạn mà chẳng ngăn ngại lẫn nhau. Đó chẳng phải là chỗ thức tâm phân biệt có thể biết, vì nó là dụng của chân như tự tại”. Đây là nói về phần sắc tướng ứng với tâm vô phân biệt của chư Phật. Do chân tâm trùm khắp vô ngại nên sắc nó hiện ra cũng viên dung, tự tại, vô ngại. Còn phần sắc tướng chúng ta thấy hiện nay là ứng với thức tâm phân biệt của chúng sinh, là sở kiến của cái thấy, tùy nghiệp của từng loài mà có cảnh giới sắc, thanh, hương, vị… khác nhau. 

Phần sắc tướngchúng sinh nhận biết thì có phần hạn, có ngăn ngại. Còn phần sắc tướng ứng với tâm thanh tịnh của chư Phật thì không có phần hạn, cũng chẳng ngăn ngại lẫn nhau, vì mỗi căn của Phật đều trùm khắp pháp giới. Đây là báo và hóa thân nói trong tam thân. Báo và hóa thân này không lìa pháp thân, như sóng và nước xưa nay không hai. Nói “sắc tánh tức là trí” là nói sắc tức là tâm, là muốn hiển cái không hai đó. Nói “trí tánh tức là sắc” là nói tâm tức là sắc, cũng muốn hiển cái không hai đó, như nước có khắp trong tất cả sóng. Tánh sắc, tánh trí là chỉ cho bản giác trí tâm

Vô lượng Bồ-tát… là muốn nói đến tác dụng của báo thân. Đó là đại dụng cơ cảm của báo thân, đều có thể tùy duyên mà ứng tức khắc. Đây là dụng của chân như, nên không phải là chỗ thấy của thức tâm phân biệt, là vọng tâm chúng ta đang dùng hiện nay.

Các tướng sai khác của pháp thân   

Theo luận Thành duy thức, pháp thânba tướng sai khác: Tự tánh thân, Thọ dụng thânBiến hóa thân.   

1- Tự tánh thân là pháp giới chân tịnhNhư Lai đã chứng đắc, là chỗ nương bình đẳng của Thọ dụng thânBiến hóa thân. Thân này vắng lặng, không có biên tế, lìa tất cả tướng, bặt mọi hý luận, là thực tánh bình đẳng của tất cả pháp. Phân theo tam thân, đó chính là pháp thân, chỉ cho thể tánh không của vạn pháp, cũng chính là tướng không nói trong Tâm kinh Bát-nhã, là Phật tánh nói trong kinh Đại bát Niết-bàn, là cái “không” chân như nói trong luận Đại thừa khởi tín.      

2- Thọ dụng thân có hai, là Tự thọ dụng thânTha thọ dụng thân.

- Tự thọ dụng thân là thân tự thọ dụng pháp lạc rộng lớn. Các Đức Như Lai trải qua vô số kiếp tu tập vô lượng tư lương, vô lượng phước đức, trí tuệ, giúp làm phát sinh bốn trí Bồ-đề và vô biên công đức chân thật, thành tựu sắc thân rất viên mãn, thanh tịnh, thường hằng biến khắp, tương tục lặng lẽ, cùng tột đời vị lai, thường tự thọ dụng pháp lạc rộng lớn.

- Tha thọ dụng thân là thân giúp người thọ dụng pháp lạc rộng lớn. Các Đức Như Lai do năng lực của Bình đẳng tánh trí, ở cõi thuần tịnh, thị hiện công đức thanh tịnh vi diệu, vì hàng Bồ-tát Thập địahiện đại thần thông, chuyển bánh xe pháp, dứt trừ lưới nghi, khiến họ thọ dụng pháp lạc Đại thừa

Đây chính là báo thân nói trong tam thân.   

3- Biến hóa thân là thân biến hóa ở các cõi. Chư Như Lai, do năng lực của Thành sở tác trí, có thể biến hiện ra vô lượng hóa thân theo loài hữu tình, tịnh có, uế có. Cũng tùy theo cơ nghi của chúng Bồ-tát chưa đăng địa, cùng hàng Nhị thừa và một loại Dị sinh mà hiện thần thông nói pháp, khiến họ đều được lợi lạc. Đây là hóa thân nói trong tam thân

Tóm lại, ba thân sai biệt của pháp thân đều có đầy đủ vô lượng vô biên công đức, nhưng mỗi thân có khác. 

Tự tánh thân thì chỉ có công đức vô vi chân thật, lìa mọi tạp nhiễm, làm chỗ nương cho các thiện, nhưng không có tướng dụng sai khác của sắc tâm. Tự tánh thân này chính là phần tánh thể không tăng không giảm khi nói đến tánh thể của vạn pháp

Tự thọ dụng thân thì có đủ vô lượng các thứ công đức chân thật của sắc tâm thù diệu.

Tuy thân này của chư Phật không giống nhau nhưng đều vô biên và không chướng ngại lẫn nhau.  

Tha thọ dụng thânBiến hóa thân thì chỉ có vô biên công đức hóa tướng của sắc thân tương tợ, với tác dụng lợi lạc cho loài hữu tình. Hai thân này tùy theo các loài chư Như Lai hóa độ mà sự biến hóa có chung và không chung. 

Nếu loài hữu tình được hóa độ là chung, đồng chỗ, đồng thời… thì chư Như Lai đều biến ra thân và độ có tướng trạng tương tợ, không chướng ngại nhau, triển chuyển xen nhau làm tăng thượng duyên, khiến trên tự thức của các loài được hóa độ đó biến hiện ra Phật hóa thân cùng Phật hóa độ. Chúng sinh đó nghĩ Phật thân của chư Phật chỉ là một, kỳ thật là do nhiều Phật biến ra. 

Nếu loài hữu tình được hóa độ là không chung thì dù chúng sinh ấy có thấy mười phương chư Phật hiện ra, thực tế cũng chỉ là sự hóa hiện của một Phật. 

Sở kiến của chúng sinh với Tha thọ dụngBiến hóa thân của chư Phật

Sở kiến là những gì mà loài hữu tình nhận biết được qua các căn, đó là đối tượng của các căn. Song dùng sở kiến mà không dùng các từ khác như sở nghe v.v… là có lý do sâu xa ở mặt tu chứng, ở đây không bàn tới, chỉ y các bậc cổ đức mà lấy nghĩa chính là đối tượng của cái thấy. 


Sở kiến này, tùy nghiệp thức của từng loài mà có sự không đồng. Như loài người thấy nước là nước nhưng ngạ quỷ lại thấy là lửa hoặc máu. Đó là do nghiệp thức của từng loài mà sở kiến thành khác nhau. Đối với việc thấy Phật cũng vậy, tùy nghiệp thức từng loài mà việc thấy Phật này cũng không đồng. Luận Đại thừa khởi tín phân phần sở kiến thấy Phật này ra làm hai. Một, là sở kiến của phàm phuNhị thừa. Hai, là sở kiến của Bồ-tát. 

1- Sở kiến của phàm phuNhị thừa

Luận nói: “Y nơi phân biệt sự thức, gọi là ứng thân. Vì không biết do chuyển thức hiện nên thấy từ ngoài đến. Nhận lấy phần hạn của sắc nên không thể biết hết”. Phàm phu là chỉ cho người đời. Nhị thừa là chỉ cho Thanh vănDuyên giác. Phàm phu thì gần như không ai biết gì về các thức. Nhị thừa thì chỉ mới biết đến thức thứ sáu, chưa biết có thức thứ bảy và thứ tám, chưa thấu nghĩa duy tâm sở hiện, không biết các trần chỉ là thức, nên chấp ngoài tâm thật có cảnh giới, thấy thật có Phật Thích Ca với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, chấp có sinh tử đáng chán, có Niết-bàn đáng vui, không rõ đạo lý duy tâm. Nói Y phân biệt sự thức mà thấy là vậy. Phân biệt sự thức là chỉ cho thức thứ sáu. 


Chuyển thức là do tự tánh chân như không tánh, bất giác tâm động mà thành chuyển thức. Thức này, chân vọng hòa hợp. Từ chuyển thứchiện thức, hiện các cảnh giới (như ngủ rồi mộng). Do chưa thấu được phần chuyển thức này, không biết mọi cảnh giới đều do thức biến, nên thấy mọi thứ thật từ ngoài đến. Đây là cái thấy của đa phần chúng ta hiện nay. Thấy ta, thấy người và thấy mọi thứ đều có phần hạn như thật, rồi chấp vào những phần hạn ấy mà hành tác, nên “càng không thể biết hết”, là không thể tường tận được thực chất của vạn pháp.

Hỏi: Nếu đó là dụng của chân như trong tự tâm của chúng sinh, vậy thì liên quan gì đến báo thânhóa thân Phật?

Đáp: Chân tâm của chúng sinh và thể của chư Phật hoàn toàn không có sai khác. Chúng sinh mê chân khởi vọng, nên chân như chỉ hiện nhiễm tướng, chẳng hiện được chân dụng. Cần có bản giác nội huân vọng tâm, mới có thể có chán và cầu, là chán cái khổ sinh tử, cầu cái vui Niết-bàn. Nhờ chán và cầu này mà dụng của chân như được hiển. Chán cầu kém thì tướng dụng thô. Chán cầu dần tăng thì dụng cũng dần tế. Dần dần như thế cho đến nguồn tâm, vô minh hết, chán cầu đều mất, thủy giác đồng với bản giác, dụng lại về thể, bình đẳng bình đẳng

Trong giai đoạn dụng chân như của chúng sinh chưa thể hiển thì đó là lúc cần có dụng chân như của chư Phật trợ duyên, là lúc Tha thọ dụng thân (báo thân) và Biến hóa thân (hóa thân) của Phật khởi tác dụng. Luận Đại thừa khởi tín nói: “Dụng chân nhưchư Phật Như Lai khi còn tại nhân địa, phát đại từ bi, tu các ba-la-mật, nhiếp hóa chúng sinh, lập đại thệ nguyện muốn độ thoát hết tất cả chúng sinh trong các cõi, không giới hạn kiếp số, đến cùng tận vị lai. Vì coi tất cả chúng sinh như thân mình mà không nắm giữ tướng chúng sinh. Do đâu như thế? Vì như thật biết tất cả chúng sinh cùng với thân mình chân như bình đẳng, không có sai khác. Vì có trí đại phương tiện như vậy nên trừ diệt được vô minh, thấy pháp thân mình. Tự nhiên có mọi thứ nghiệp dụng4 không thể nghĩ bàn. Liền cùng chân như đồng khắp tất cả chỗ. Cũng không có tướng dụng có thể được. Vì sao? Vì thân của chư Phật Như Lai chỉ là thân trí tướng pháp thân đệ nhất nghĩa đế, không có cảnh giới thế đế, lìa hành tác, chỉ tùy chúng sinh thấy nghe mà được lợi ích, nên nói là dụng5.

Đoạn luận này có vài điểm cần lưu ý: Tự nhiên có mọi thứ nghiệp dụng không thể nghĩ bàn là dụng này không do Phật tác ý mà có, chỉ như trống trời ma-ni vô tưthành sự, nên nói lìa hành tác. Cũng không có tướng dụng có thể được, là dụng tuy có mà thể thường tịch diệt. Chỉ tùy duyên khởi dụng, nên dụng mà không dụng, như nước tùy duyên thành sóng mà thể hằng tịch diệt. Nếu phế bỏ cơ cảm thì Như Lai chỉ là diệu lý bản trí, hoàn toàn không có tướng thế đế sinh diệt mà có ứng hóa thân. Nhưng vì có cơ cảm là do khi chư Như Lai còn tại nhân địa, đã tu các ba-la-mật, phát đại thệ nguyện độ thoát chúng sinh trong các cõi, mà khi đủ cơ cảm thì dụng chân như này liền hiện, khiến chúng sinh thấy được báo hóa thân mà nhận sự hộ trì cùng giáo hóa của chư Phật. 

Cho nên, tuy là sở kiến của phàm phuNhị thừa nhưng lại chính là ứng hóa thân của chư Phật. Bi và trí của chư Phật làm tăng thượng duyên, chủng tử cơ cảm của chúng sinh làm nhân duyên, nương vào bản chất Phật trên, tự tâm biến ra hình tượng. Chỗ “không một không khác” này là thứ khó nghĩ bàn đối với tâm thức của người đời.

Luận nói tiếp: “Lại, sở kiến của phàm phu là sắc thô, tùy lục đạo mà thấy các thứ dị loại không đồng, không phải là tướng thọ lạc, nên nói ứng thân”. Tuy đều là ứng hóa thân của Phật, nhưng tùy nghiệp lực trói buộc của từng loài, từng người, chưa giác ngộ, hoặc đã giác ngộ v.v… mà ứng hóa thân thành có khác. Tổ Hiền Thủ nói: “Như tập khí ở ba ác đạo, thấy thân Phật dài ba thước như chân voi đen. Như Đề-vi v.v… ở địa vị trời người thấy Phật là thần cây và thân thiên thần vv… Y theo đó thì biết chúng sinhlục đạo thấy Phật không đồng, đều không phải là tướng xuất thế, nên không phải là tướng thọ lạc. Hàng Nhị thừa thấy Phật là thân thánh nhân A-la-hán xuất thế, nên nói ứng thân6.

Tướng thọ lạc là chỉ cho báo thân. Chẳng phải là báo thân, nên nói ứng thân.     

2- Sở kiến của tâm Bồ-tát từ Sơ phát tâm đến Cứu cánh địa

Luận nói: “Sở kiến của tâm Bồ-tát từ Sơ phát tâm đến Cứu cánh địa, y nơi nghiệp thức, gọi là báo thân. Thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng hảo. Chỗ trụ y nơi quả cũng có vô lượng các thứ trang nghiêm, tùy chỗ mà thị hiện, không có bờ mé, chẳng thể cùng tận, lìa tướng phần hạn, tùy chỗ cảm ứng, thường hay giữ gìn chẳng hủy, chẳng mất. Công đức như thế đều nhân nơi các hạnh vô lậu ba-la-mật huân tập và sự huân tập không thể nghĩ bàn mà được thành tựu, đầy đủ vô lượng tướng lạc, nên nói báo thân7

Chư vị Bồ-tát này từ khi mới phát tâm Bồ-đề cho đến khi thành tựu quả vị Phật đều y nơi nghiệp thức mà quán thấy mọi hiện tượng. Y nghiệp thức thì biết các trần không ngoài duy thức, thảy đều duy tâm sở hiện, cũng quán thấy phần hạn là không phần hạn, mỗi một sắc tướng đều trùm khắp pháp giới, dung nhau vô ngại, tự tại khó nghĩ bàn. Do phần quán thấy đó mà tâm có chỗ tương ưng, cảm được báo thân của chư Phật. 

Báo thân đó, thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng v.v… là nói về chánh báo. Do thân không có phần hạn nên nói vô lượng sắc. Chỗ trụ y nơi quả là nói về y báo. Y báo cũng không có phần hạn, nên nói vô biên. Tùy chỗ thị hiện không có bờ mé… là nói đến phần hạn sắc của báo thân, không phải có phần hạn như hóa thân, mỗi sắc tướng thị hiện đều trùm khắp pháp giới. Tùy chỗ cảm ứng chẳng hủy, chẳng mất… là tùy nghiệp hạnh của người cảm mà ứng ra, đều thường trụ, vì chỗ này tam tai không thể phá hoại. Tất cả những công đức có được đó đều nhờ sự huân tập không thể nghĩ bàn mà được thành tựu. Chư Phật đã huân tập vô lượng hạnh vô lậu ba-la-mật như thế trong quá khứ mới được phần Thọ dụng thân này. Chư Bồ-tát do cảm ứng tương ưng, có thể nhận được phần giáo hóa từ thân Tha thọ dụng này. 
 
  Chân Hiền Tâm
Bài đọc thêm:

Tam thân của Đức Phật (Suzuki - Huỳnh Ngọc Chiến dịch)

Hành trình chứng ngộ Tam thân Phật
Tam Thân (Wikipedia)
______________
(1) Đại thừa khởi tín luận - Bồ-tát Mã Minh. Chân Hiền Tâm dịch và giải.   
(2) Đại thừa khởi tín luận trực giải - Đại sư Hám Sơn. 
(3) Đại thừa khởi tín luận - Bồ-tát Mã Minh. Chân Hiền Tâm dịch và giải. 
(4) Nghiệp đây là nghiệp thanh tịnh, không phải nghiệp trói buộc của chúng sinh.  
(5) Đại thừa khởi tín luận - Bồ-tát Mã Minh. Chân Hiền Tâm dịch và giải.   
(6) Đại thừa khởi tín luận nghĩa ký - Đại sư Hiền Thủ.  
(7) Đại thừa khởi tín luận - Bồ-tát Mã Minh. Chân Hiền Tâm dịch và giải.   
 
SÁCH THAM KHẢO
 
- Đại thừa khởi tín luận nghĩa ký - Đại sư Hiền Thủ.
- Đại thừa khởi tín luận trực giải - Đại sư Hám Sơn.
- Thành duy thức luận - HT.Thích Thiện Siêu dịch và chú. 
- Đại thừa khởi tín luận - Chân Hiền Tâm Việt dịch và giải thích.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2253)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3413)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4093)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3862)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2806)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3283)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3416)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4467)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3793)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4667)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 3940)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 2937)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3697)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3826)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 2991)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3542)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4382)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3649)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2166)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2542)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 2962)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2646)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4534)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4861)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2776)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5127)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2783)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3195)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4310)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4853)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4599)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3160)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4488)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4211)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6069)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3454)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 3953)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 5935)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5345)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 3964)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 32565)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3116)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4084)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4671)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 2998)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3738)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3473)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6470)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2716)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3174)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4472)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3368)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7220)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4410)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4457)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7123)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2890)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12003)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3884)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3708)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant