Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thấy Phật

04 Tháng Tám 202012:48(Xem: 4252)
Thấy Phật

THẤY PHẬT

Đại sư
Tinh Vân
Diệu Huyền


Thấy Phật


Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa. Khi nghĩ đến điều này, tôi lại nhớ đến một bài thơ trong đạo Phật diễn tả thật thích hợp cảm nghĩ của tôi:

Khi Phật tại thế, tôi còn lạc loài nơi đâu
Khi Phật nhập Niết Bàn rồi, tôi mới được sinh ra
Tôi xin sám hối tất cả những nghiệp chướng sâu dầy
Đã ngăn không cho tôi thấy được kim thân của Đức Như Lai

 Nhưng thực ra có nhiều cách để chúng ta thấy Phật được. Chúng ta thấy Phật qua hình ảnh thiêng liêng trong các tôn tượng và bức họa, ta đọc kinh sách để thấy tướng mạo Đức Phật được diễn tả thế nào, và qua sự thực hành tu tập ta có thể biết được “Pháp Thân”, tức thân Phật thực sự. Thấy Phật qua những cách đó, ta sẽ hiểu biết nhiều hơn về bậc Đạo Sư vĩ đại của chúng ta

Hình ảnh Đức Phật

 Ngày nay, khi muốn thấy hình tướng của Đức Phật, chúng ta nhìn vào những tôn tượng và bức vẽ ngài. Trải qua bao nhiêu năm, người ta đã diễn tả lại Đức Phật qua nhiều kiểu khác nhau. Một số tạc hình ảnh của Phật trong gỗ hay đá, một số khác điêu khắc trên kim loại, và có những người khác phác họa ngài trên giấy. Một số tạc hình ảnh của Phật trong gỗ hay đá, một số khác điêu khắc trên kim loại, và có những người khác phác họa ngài trên giấy. Không những chất liệu dùng khác nhau, mà cũng có nhiều dáng điệu khác nhau. Đôi khi, Đức Phật ở trong vị trí ngồi, những lúc khác thì đứng, hoặc nằm. Nhưng dù cho làm bằng chất liệu gì, hay ở trong dáng điệu gì, những hình tượng Phật ấy cũng cho ta cảm nhận khái quát được lòng từ bi, sự trang nghiêm và vĩ đại của ngài.

 Tại sao có một số tượng Phật ngồi, trong khi một số khác lại đứng? Mỗi thế đều có một ý nghĩa sâu xa, tượng trưng cho tinh thầntư cách cao thượng của Đức Phật. Trong vài trường hợp, Đức Phật được diễn tả ngồi trong thế hoa sen, tay để trong lòng, như đang ở trạng thái thiền định sâu xa. Thế ngồi này tượng trưng cho sự giác ngộ của ngài. Đức Phật được giác ngộ sau khi đã trải qua một thời gian dài tu tập thiền định, quán tưởngtự quán chiếu mình. Những lúc khác, ta lại thấy Đức Phật được diễn tả trong thế ngồi, tay trái để trong lòng, tay phải đưa lên hướng lòng bàn tay ra ngoài, đang giảng Pháp. Thế ngồi này tượng trưng cho sự tu tập giác ngộ của Đức Phật không chỉ riêng cho ngài, mà còn cho tất cả chúng sinh. Sau khi giác ngộ rồi, Đức Phật đã đem chân lý chỉ dạy lại cho chúng sinh, giúp chúng ta tiêu trừ những mê lầm.

 Trong một số tượng Phật, ngài đứng với một tay buông xuống, đón nhận và hướng dẫn chúng sanh. Khi ta thấy mình đang chìm đắm trong biển khổ, tất nhiên là ta sẽ cảm thấy vui mừng vô cùng khi thấy Phật đưa tay ra để cứu vớt mình. Trong những tượng khác, Đức Phật đang đi, như thể đang vội vã trên đường đi giảng Pháp. Bậc Như Lai toàn giác rất có lòng từ bi trong việc cứu độ tất cả chúng sinh; ngài luôn luôn ở đó để gia hộ cho chúng ta.

 Có một số tượng và bức vẽ mô tả Đức Phật trong thế nằm, nhập Niết Bàn trong sự an bình tĩnh lặng. Thế này tượng trưng cho sự thành tựu viên mãn công đứctrí tuệ, qua đó Đức Phật đã chấm dứt được vòng sinh tử. Thế nằm cũng tượng trưng cho sự chuyển tiếp từ động sang tịnh. Khi Đức Phật còn tại thế, ngài luôn luôn hoạt động, đi vân du khắp nơi để giảng Pháp. Trong khi tất cả những gì động đều có lúc phải chấm dứt, nền tảng tịnh vẫn luôn luôn lâu bền. Khi đến lúc chung cuộc nhập Niết Bàn, Đức Phật trở thành một với vạn pháp và vượt khỏi giòng thời gian. Như vậy, ta có thể nói rằng Niết Bàn là sự chuyển tiếp từ động qua tịnh. Hình ảnh Đức Phật nhập Niết Bàn cho ta thấy rằng ngài luôn luôn ở trong tâm ta, lúc nào cũng hiện diện như trái đất này, và lâu bền như mặt trờimặt trăng vậy.

Bức tượng Phật bằng gỗ đầu tiên

 Tượng Phật gỗ đầu tiên được tạc từ khi nào? Kinh Tăng Nhất A Hàm có kể lại một câu chuyện chi tiết, cũng được Đại Đường Tây Vực Ký thuật lại như sau:

 Một năm nọ, trong lúc an cư kiết hạ, không ai thấy Phật ở đâu cả. Khi các đệ tử nhận raĐức Phật đã biến mất, họ tung ra tìm kiếm khắp nơi, nhưng không ai biết được ngài đang ở đâu cả. Họ bèn đến hỏi tôn giả Ananda xem ngài có biết Đức Phật ở đâu không, nhưng Ananda cũng không biết. Ananda đề nghị họ nên đến cầu cứu Aniruddha, người có thiên nhãn thông cao nhất. Aniruddha dùng thần thông thấy Phật đã đến cõi trời Đao Lợi để giảng Pháp cho người mẹ quá cố của ngài là Hoàng hậu Maya.

 Tại sao Đức Phật lại đi đến cõi trời Đao Lợi mà không cho ai biết cả? Có ba lý do. Thứ nhất là Đức Phật vẫn luôn muốn được giảng Pháp cho người mẹ quá cố của ngài để cám ơn bà đã sinh ngài ra đời. Thứ hai, vì Đức Phật vẫn có mặt thường xuyên để chỉ dạy, nên một số đệ tử của ngài đã trở nên tự mãn và giải đãi trong việc tu học. Thứ ba, trong tăng đoàn đã xẩy ra nhiều chuyện cãi vã, Đức Phật muốn những người liên hệthì giờ để suy xét lại hành vi của họ. 

 Trong những người tưởng nhớ đến Đức Phật nhiều nhất, có vua Udayana của xứ Kausambi. Vị vua này sùng kính Đức Phật đến nỗi, khi vắng mặt Phật ông mất tinh thần và ngã bệnh luôn. Những người trong hoàng gia xúm nhau lại tìm cách làm sao cho nhà vua đỡ bệnh hơn, rốt cuộc, họ giao cho một nghệ nhân tạc tượng tài giỏi nhất trong xứ làm ra một bức tượng Đức Phật. Họ hi vọng rằng, không có Đức Phật thì bức tượng ấy sẽ thay mặt cho ngài để nhận sự thờ kính của mọi người. Nhà vua rất hoan hỷ, và ngay lập tức ông cho mời tôn giả Mục Kiền Liên, người có thần thông nhất trong các đệ tử của Phật, đến giúp họ làm việc này. Mục Kiền Liên dùng thần thông chở nghệ nhân tạc tượng đến cõi trời Đao Lợi để ông ta có dịp chiêm ngưỡng tướng hảo quang minh của Đức Phật. Sau ba lần đến thăm cõi trời, nghệ nhân cuối cùng đã tạc được một bức tượng cao năm feet bằng gỗ đàn hương giống y như Đức Phật. Khi bức tượng này được hoàn thànhđưa tới, nhà vua vui mừng khôn tả, hết bệnh ngay.

 Sau ba tháng, Đức Phật trở về với thế giới ta bà. Khi ngài trở về, bức tượng bỗng sống dậy và đến đảnh lễ đón chào Đức Phật. Đức Phật mỉm cười, nói rằng, “Chắc ngươi cũng mệt với chuyện dạy dỗ chúng sanh rồi phải không. Kể từ đây, trong những thế hệ về sau, do nơi ngươi mà chúng sanh sẽ được nhắc nhở đến chân lý.”

 Theo như câu chuyện kể này, hình tượng đầu tiên về Đức Phật bằng gỗ đã được đúc tạc khi ngài còn tại thế, trước khi nhập Niết Bàn. Việc bức tượng sống dậy để đón chào Đức Phật ngụ ý rằng Đức Phật vẫn luôn luôn hiện hữu trong chúng ta. Khi ta chiêm ngưỡng tượng Phật, tức là ta đang thấy bản chất tinh yếu của Phật.

Bức tượng Phật bằng kim loại đầu tiên

 Còn bức tượng Phật đầu tiên bằng kim loại thì sao? Trong kinh Tăng Nhất A Hàm có kể lại xuất xứ của câu chuyện này, và trong kinh Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ cũng nhắc đến như sau:

 Khi vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) của nước Kosala nghe tin vua Udayana đã tạc được một bức tượng giống Phật bằng gỗ đàn hương, ông cũng suy tính việc tạo một hình ảnh của Đức Phật. Vua Prasenajit muốn tỏ lòng cung kính đối với Đức Phật, hơn nữa, nhà vua cũng hơi có tinh thần cạnh tranh, muốn vượt trội nhà vua Udayana. Thế nên, nhà vua Prasenajit bèn cho người tạc một bức tượng Phật bằng vàng ròng. Bức tượng này cũng cao năm feet, và đánh dấu sự mở đầu sáng tạo của việc đúc tạc hình ảnh Đức Phật.

 Cũng trong thời điểm ấy, lão trưởng giả Cấp Cô Độc (Anathapindaka) cũng tỏ ý muốn đúc một bức tượng Phật. Một ngày nọ, sau khi Đức Phật đã giảng Pháp xong ở vườn Kỳ Viên, Cấp Cô Độc đến quỳ đảnh lễ ngài, nói rằng:

 “Kính bạch Đức Thế Tôn, khi Đức Phật ở với chúng con, mọi người đều cung kính và mọi sự đều có vẻ tốt đẹptrang nghiêm. Nhưng không may là, khi Đức Phật phải đi xa vân du giảng Pháp, chúng con đều cảm thấy trống vắng và tăng đoàn không còn giữ được tình trạng như khi có Đức Phật. Vì vậy, chúng con xin được đúc tạc hình ảnh giống ngài, để khi Đức Phật đi xa, chúng con sẽ có bức tượng nhắc nhở đến Phật mà thờ kính. Làm như thế, chúng con sẽ luôn cảm thấy gần gũi với Phật.”

 Đức Phật nghe vậy rất hoan hỷ. Ngài nói với Cấp Cô Độc rằng: “Bởi vì ông làm việc này để nhắc nhở Giáo Pháp đến chúng sinh, tôi sẽ cho phép ông”.

 Cấp Cô Độc hỏi thêm, “Chúng con muốn tôn vinh Đức Phật, và con hi vọng rằng Đức Phật sẽ cho phép chúng con được trang hoàng cho bức tượng.”

 Đức Phật trả lời: “Ông cứ tuỳ duyên mà làm”.

 Từ những đoạn kinh này, ta thấy rằng ngay cả khi Đức Phật còn tại thế, có nhiều vị vua và trưởng giả đã muốn đúc tạc tôn tượng của ngài để thờ kính. Một pho tượng Phật bằng vàng cũng như một ngọn đèn rực sáng, soi chiếu trái tim chúng ta

Bức họa Phật đầu tiên

Khi nào có bức họa Phật đầu tiên? Không có câu trả lời chắc chắn cho điều này. Theo kinh A Hàm, một trong những bức họa sớm nhất về Đức Phật được hoàn thành khi Đức Phật sắp nhập Niết Bàn. Lúc ấy, tôn giả Ma-Ha-Ca-Diếp lo ngại rằng vua Ajatasatru (A Xà Thế) của xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) sẽ bị khủng hoảng khi nghe tin Đức Phật nhập diệt, vì vậy, sau khi ngài thảo luận với triều đình của vua A Xà Thế, họ đã quyết định mướn người vẽ một bức họa Phật để giúp nhà vua vượt qua nỗi buồn.

Những bức hoạ Phật được đem đến Trung Hoa trong thời nhà Hán, gần một ngàn năm sau khi Đức Phật nhập diệt Niết Bàn. Trong thời gian đó, nhiều tăng sĩ từ Trung Hoa đã du hành qua Ấn Độ để học đạo Phật. Ở đó họ được xem bức tượng Phật bằng gỗ đàn hương, và ước ao được thỉnh bức tượng đó về Trung Hoa cho người Trung Hoa có thể chiêm ngưỡng dung nhan Đức Phật. Tuy nhiên, các vị vua Ấn Độ nhất quyết từ chối, không muốn rời xa những bức tượng quý báu của họ. Vì thế, họ đã mướn người làm những bức họa vẽ lại bức tượng này, để các tăng sĩ Trung Hoa có thể đem về xứ. Khi hoàng đế triều Hán xem những bức họa này, ông rất vui mừng và ra lệnh rằng một bức họa Phật phải được trưng bầy trên cổng chính của thành phố Lạc Dương, và cho phép dân chúng được thờ kính Đức Phật.

Ngày nay các Phật tử cũng thường trưng bầy các bức họa Phật trong nhà, vì thấy như vậy tiện hơn là những bức tượng hay những loại hình ảnh khác. Miễn là chúng ta tâm thành, bức tranh lớn hay nhỏ không thành vấn đề, tất cả đều sẽ chiếu sáng lên những người thờ kính.

Tôn kính hình tượng Đức Phật

 Bất kỳ một bức tượng Phật nào dù làm bằng đá, bằng gỗ, hay kim loại, hay một bức họa nào dù bằng vải hay bằng giấy, ta cũng đều phải tôn kính hình tượng của Đức Phật trong đó. Có thể có người hỏi rằng: Tại sao ta lại phải tôn kính các hình tượng của Đức Phật?

 Trước hết, điều quan trọng phải nhận thức là, chúng ta đều phải kính trọng các hình tượng. Ví dụ, các công dân trong nước đều phải kính trọng lá quốc kỳ của họ, mặc dù lá quốc kỳ đó chỉ là một miếng vải. Tại sao ta lại phải kính trọng một miếng vải? Tuy rằng lá quốc kỳ chỉ là một miếng vải, nhưng nó biểu hiện cho điều gì hơn như thế. Nó là biểu tượng của quốc gia, là niềm hãnh diện của chúng ta với đất nước. Những người theo đạo Thiên Chúa tôn kính cây thánh giá. Tuy nhiên, cây thánh giá chỉ là một vật làm bằng gỗ hay kim loại. Như vậy có phải là những người theo Thiên Chúa Giáo không nên tôn kính thánh giá đó chăng? Sự tôn kính những biểu tượng hoặc hình tượng tuyệt đối không có gì là sai cả, miễn là chúng ta hiểu được những biểu tượng hay hình tượng này tượng trưng cho cái gì.

 Một miếng vải có thể được may thành một cái mũ để đội trên đầu. Cũng miếng vải đó có thể được làm thành một đôi dép để đi trên chân. Một miếng vải tự nó cũng chỉ là miếng vải, nhưng ta nhìn nó một cách khác sau khi nó đã có hình dạng của một sản phẩm nào đó. Ta thường giữ một tấm giấy có in hình cha mẹ trong một nơi nào đó an toàn. Cũng miếng giấy đó nếu có nét nghệch ngoạc viết lên thì có thể bị ném ngay không chút thương tiếc. Cũng vậy, một tấm kim loại được đúc thành tượng Phật phải được để ở một nơi sạch sẽ, thích hợp. Cũng tấm kim loại đó, nếu được đúc thành một món đồ chơi, có thể bị đá văng hay ném lung tung không một chút ngần ngại. Một bức tượng Phật có thể làm bằng gỗ, bằng đá, hay kim loại, nhưng trong tâm ta bức tượng ấy biểu hiện cho sự giác ngộ viên mãn của Đức Phật. Khi chúng ta đảnh lễ những hình tượng thiêng liêng của Đức Phật, ta không đảnh lễ những tấm gỗ, đá hoặc kim loại làm nên những bức tượng này, mà chính là ta đảnh lễ Đức Phật.

 Điều trọng yếuchúng ta phải biết vì sao chúng ta làm một việc gì đó. Khi chúng ta đảnh lễ tượng Phật, ta phải tập trung tư tưởng vào Đức Phật và trừ đi những ngọn lửa si mê trong tâm. Ta phải có sự thành kínhchân thật. Khi chúng ta thờ kính hình tượng Phật theo đúng cách, bất kỳ hình ảnh nào của Phật cũng có thể làm cho lòng tin của ta được tăng thêm và cho trái tim ta rung động. Một ngạn ngữ Trung Hoa nói rằng, “Khi có sự thành tâm và tập trung nhất mực, ngay cả đá hay vàng cũng phải nứt ra,” ngụ ý là, nếu chúng ta lễ Phật với lòng thành kính, ta sẽ cảm thấy sự hiện diện của Đức Phật.

 Thật sự ra, đạo Phật là một tôn giáo đánh giá ý chí của con người cao hơn những truyền thống đã định sẵn, và dạy chúng ta không nên chấp vào hình tượng, dù là thiêng liêng hay không. Một công án đặc biệt trong Thiền Tông đã chỉ ra điều này như sau:

 Có lần, thiền sư Đan Hà Thiên Nhiên đi du phương đến ở tại một ngôi chùa. Mùa đông năm ấy thật khắc nghiệt lạ thường. Để sưởi ấm, Đan Hà lên bàn thờ, lấy bức tượng Phật bằng gỗ đem đốt. Sư chủ thấy vậy vội vàng chạy đến, hét lên: “Sao ông dám đem tượng Phật ra đốt ?”

 Đan Hà không chút ngại ngùng, trả lời: “Tôi không dùng tượng Phật như khúc gỗ. Tôi chỉ muốn tìm xem có xá lợi Phật trong đó không.”

 Sư chủ bảo: “Vô lý! Làm sao ông tìm thấy xá lợi Phật trong khúc gỗ được?”

 Đan Hà: “Nếu đây là khúc gỗ, sao ông không dùng nó để sưởi?”

 Sư chủ nghe câu này, tất cả kiến chấp đều tan vỡ.

 Đan Hà đúng là một đệ tử chân chính của Phật, vì ông đã hiểu được tinh yếu của giáo pháp. Ông biết rằng, tâm, Phật, và chúng sanh là một và như nhau. Khi chưa giác ngộ, ta phải tôn kính những hình tượng thiêng liêng. Khi giác ngộ rồi, ta biết rằng Phật không tìm thấy được nơi những hình tượng thiêng liêng, mà ở ngay trong chúng ta.

 Trước khi hoàng đế Xuan của triều nhà Hán lên ngôi, ông là một chú tiểu ở trong chùa. Có lần, ông bắt gặp thiền sư Hoàng Bá Hy Vận trong chánh điện đang lễ Phật. Bắt chước thiền sư, thiếu niên, cũng là vị hoàng đế sau này, nói rằng: “Ông thường bảo là, “Đừng lo tìm cầu Phật, đừng lo tìm cầu Pháp, đừng lo tìm cầu Tăng, thế thì việc gì ông phải lễ lậy Phật?”

 Đó là, khi đứng sau lưng vị thiền sư, cậu bé chợt nhớ lại một trong những câu ngài hay nói rồi lập lại những lời ấy một cách vô thức: “Đừng chấp nơi Phật, đừng chấp nơi Pháp, đừng chấp nơi Tăng. Thế thì việc gì phải lễ lậy Phật?”

 Khi thiền sư nghe vậy, ông liền quay lại tát vào mặt chú tiểu, quát lên: “Đừng chấp nơi Phật, đừng chấp nơi Pháp, đừng chấp nơi Tăng. Nhưng với ngươi thì phải như vậy!”

 Những người không hiểu được ý nghĩa đàng sau sự lễ lậy các hình tượng thiêng liêng thường cho chuyện đó là đáng nực cười. Họ không nhận ra rằng, khi lậy Phật là tâm ta đã cảm ứng với tâm Phật.

Thân thật vô tướng của Phật

Thân thật của Phật là thân vô tướng.

Ngày nay, chúng ta có thể thấy hình tượng Đức Phật ở khắp nơi. Dù cho Đức Phật đã nhập Niết Bàn từ hơn 2500 năm trước đây, ngài vẫn hiện diện trong cõi thế này. Nhưng cái gì là thân thật của Đức Phật?

 Tướng thật của Phật gọi là Pháp Thân. Pháp thân là tinh tuý thực sự của Phật, không có hình tướng. Ngay cả các vị bồ tát đã đạt đến cửu địa cũng không thể thấy Pháp thân của Phật, thế thì làm sao chúng ta, những người còn mờ mịt trong vô minh, còn thấy gì được? Pháp thân là không có hình thể, không có tướng, không đến cũng không đi, không có khởi đầu, không có chấm dứt. Với những đặc điểm như vậy, làm sao ta thấy Pháp thân của Phật được?

 Nhưng trong kinh nói: “Bớt được một chút vô minh, là cảm nghiệm được một chút Pháp thân.” Như thế, ta có thể thấy rằng Pháp thân không phải là điều gì có thể thấy qua vật chất được, vì Pháp thân là có liên hệ trực tiếp đến sự giác ngộ. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng, “Pháp tánh vốn không rỗng, tịch lặng; không thể đắc được, cũng không thể thấy được. Sự không rỗng của Pháp tánhtrạng thái của Phật, đó không phải là điều có thể đo lường được. Pháp thân là vượt ra ngoài ngôn ngữ luận bàn, không thể đo lường được. Có câu nói rằng, “Nếu ai muốn chứng được trạng thái của Phật, tâm người ấy phải trong suốt như không khí vậy.”

 Pháp thân là thân của tánh không, không có hình thể, không có tướng mạo, mặc dù không ai thấy hay diễn tả được. Tuy không có hình thể, nhưng hình thể nào cũng có nó, và tuy không có tướng mạo, nhưng tướng mạo nào cũng có nó. Pháp thân hiện diện khắp nơi, vì nó thấm thấu cả trong vũ trụ.

 Có một lần, hòa thượng Taiyuan Fu ở Dương Châu đang giảng kinh Đại Bát Niết Bàn. Khi ông cố giải thích bản chất của Pháp thân, một thiền sư đang ngồi trong đại chúng không nhịn được cười. Sau buổi thuyết pháp, hòa thượng Taiyuan Fu đến gặp vị thiền sư, khiêm cung hỏi rằng: “Xin đại sư chỉ dẫn, hồi nãy khi bàn về Pháp thân tôi có nói gì sai không?”

 Thiền sư trả lời, “Nếu ông thật sự muốn biết về Pháp thân, tôi khuyên ông nên ngưng giảng pháp trong ba ngày, dốc hết thì giờ để lo tu thiền định. Ông phải tự mình chứng nghiệm Pháp thân, xem đó là cái gì?”

 Theo lời khuyên của thiền sư, hòa thượng Fu lập tức đình lại việc giảng Pháp trong ba ngày, và nhập thất dốc lòng ngồi thiền quán Pháp thân. Sau ba ngày, ông đã đạt được sự chứng nghiệm. Quá vui mừng, ông đã tả lại với vị thiền sư qua bài kệ sau:

Pháp thân thật, như hư không
Xuyên suốt quá khứ, hiện tại và tương lai
Trải rộng tất cả các phương trời
Bao trùm cả âm dương bát quái
Hòa nhịp với mọi nhân duyên,
hiển thị trong các kinh nghiệm, ở khắp nơi.

 Từ câu chuyện này, ta thấy Pháp thân không phải là điều gì có thể hiểu được qua sự tìm cầu nơi hình tướng. Đó không phải là điều gì có thể giải thích được bằng lời nói. Thân vật chất của Đức Phật được vẽ tạc lại cho tất cả chúng ta đều thấy được, nhưng Pháp thân Phật không thể thấy hay nghe được. Cách duy nhất để biết được Pháp thân Phật, thân thật sự của Phật, là qua tâm trí của chúng ta.

Diệu Huyền dịch

(trích từ quyển Seeing Buddha của Đại sư Tinh Vân)

(Ngọc Bảo)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13196)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19353)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24601)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15735)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37810)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13469)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13087)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17163)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13200)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17379)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21615)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13213)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14386)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12808)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13650)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28587)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23379)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34363)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28852)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32171)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11325)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12002)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26275)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17357)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14520)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34465)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13109)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12273)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13396)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40502)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26910)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14451)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13227)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13449)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12521)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13140)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12304)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11780)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12560)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17657)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12202)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12746)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18428)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14288)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12986)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11317)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12144)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13453)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10831)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11068)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10279)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28866)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25249)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26840)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25739)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18660)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 22996)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34519)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32143)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30369)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant