Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tu Và Hành

06 Tháng Tám 202013:50(Xem: 4503)
Tu Và Hành

Tu Và Hành

Minh Mẫn


Cuộc Sống Người Tu

Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.

Tu, thường được hiểu là sửa sai, chỉnh đốn, tu bổ, làm mới…

Trong Phật giáo, Tu có nghĩa là thay đổi tánh hư tật xấu theo khung giới cơ bản, tránh xa mọi tệ nạn cám dỗ.Loại bỏ mọi tánh phàm tục, để tự trong sạch đời sống cá nhân, hướng đến cuộc sống cao thượng.

Giới luật là khung rào, là thước đo cho mọi hành vi, ý tưởnglời nói theo chuẩn mực thánh thiện. Giới có giới  tại gia, giới xuất gia, luật Tứ phần, Bồ tát giới, Thập thiện…Ngoài giới luật, còn có thập kiết sử, sở tri chướng phân tích trạng thái tâm thất niệm loạn tưởng; có nhiều phương cách dẫn tâm váo chánh niệm; hướng dẫn nếp sống theo tám con đường chánh“Các Tỳ-kheo, đây là chân lý cao cả về con đường đưa đến khổ diệt: chính là con đường Tám nẻo cao cả, tức là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định”

37 phẩm tợ đạo như:Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát thánh đạo phần.

Người Phật tử sơ tâm đến với Đạo, chỉ cần thọ Tam quy, trì ngũ giới, sau thời gian học hỏi, tìm hiểu kỷ về đời sống của một tín đồ chân chánh, phát tâm thọ trì thêm Bồ tát giới, hành Thập thiện nghiệp…để thân – khẩu – ý đi dần vào chánh nghiệp

Tu trong ba phạm vi: Thân – khẩu – ý

Thập là mười việc thiện được thực hiện qua thân (3), khẩu (4) và ý (3).

Theo kinh Thập thiện nghiệp, lợi ích bao gồm:

Thân : Không sát hại sinh vật: lợi ích

a) Tất cả chúng sinh đều kính mến

b) Lòng từ bi mở rộng đối với tất cả chúng sinh 

c) Trừ sạch thói quen giận hờn

d) Thân thể thường được khỏe mạnh

đ) Tuổi thọ được lâu dài

e) Thường được Thiên thần hộ trợ

ê) Ngủ ngon giấc và không chiêm bao giữ

g) Trừ hết các mối oán thù

h) Khỏi bị đọa vào ba đường ác.

i) Sau khi chết, được sanh lên cõi Trời.

Thân: KhôngTrộm cướp: lợi ích :

a) Tiền của có dư không bị nạn giặc giả cướp mất, chánh quyền tịch thâu, không bị nạn lụt trôi, lửa cháy và con cái phá tán.

b) Được nhiều người tin cậy

c) Không bị lừa dối, gạt gẫm.

d) lòng ngay thẳng của mình được mọi người khen ngợi

đ) Lòng được an ổn, không lo sợ vì sự tổn hại gì cả

 e) Khi chết rồi được sanh lên cõi Trời

 

Không tà dâm, không quan hệ tình dục bất chính . Lợi ích:

a) Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được vẹn toàn

 b) Đoạn trừ hết những sự phiền não, quấy nhiễu.

 c) Không ai dám xâm phạm vợ chồng con cái

 d) Được tiếng tốt, người đời khen ngợi

Khẩu : Bất vọng ngữ nghĩa là không dối gạt người, không nói lời không chân thật. phải nói trên sự thật.

  1. Bất lưỡng thiệt không nói lưỡi đôi chiều, đâm bị thóc, thọc bị gạo.
  2. Bất ác khẩu. không nói lời hung dữ, văng tục, chửi thề, nói lời độc địa
  3. Bất ỷ ngữ không dùng lời phù phiếm, nói những chuyện không mang lại lợi ích.
  4. Đem lại lợi ích:

 a) Miệng thường thơm sạch

  b) Thế gian và nhân, thiên đều kính yêu

  c) Lời nói không lầm lộn và vui vẻ

   d) Trí tuệ thù thắng, không ai hơn

   đ) Được hưởng lạc thú như ý nghuyện và ba nghiệp đều sạch.

  Ý không tham (tham ngũ dục lạc, sắc, danh, lợi, ăn, ngủ) đem lại lợi ích:

  a) Ba nghiệp (thân, khẩu, ý) được tự tại, vì nhân các căn đều đầy đủ

 b) Của cải không mất mát, hay bị cướp giựt

 c) Phúc đức tự tại

 d) Những sự tốt đẹp sẽ đến với mình, mặc dù mình không mong ước.

Không sân.

 a) Không khổ não

 b) Không giận hờn

 c) Không tranh giành

 d) tâm nhu hòa ngay thẳng

 đ) tâm từ bi như Phật 

  e) Thường làm lợi ích yên ổn cho các chúng sanh 

  f) Thân tướng trang nghiêmchúng sinh đều tôn kính

  g) Có đức nhẫn nhục, được mau sanh lên cõi Phạm Thiên

 

. Ý không si mê tà kiến (không hiểu biết chân thật- hiểu biết lầm lạc, không tỉnh táo sáng suốt- nghiện ngập, mê ngủ).

a) Được ý vui chơn thiện và bạn chơn thiện

b) Tin sâu nhân quả, thà bỏ thân mạng chớ không làm ác.

c) Chỉ quy y Phật, chứ không quy y thiên thần và ngoại đạo

d) Tâm sanh ngay thẳng, chánh kiến

đ) Sanh lên cõi trời, khỏi bị đọa vào ba đường ác

e) Phúc huệ không lường, thường tăng lên mãi

ê) Dứt hẳn đường tà, chăm tu đạo chánh

g) Không lòng chấp ngã, bỏ hết ác nghiệp

h) Yên ở vào nơi chánh kiến

i) Khỏi bị nạn dữ

 

Nói chung tu là sửa căn cứ theo giới luật được thọ trì.

 

Hành:Ngoài vấn đề thực hiện giới luật, chữ Hành bao gồm việc hành trì một pháp môn để tâm linh được tiến hóa, thăng hoa. đưa đến giác ngộ giải thoát.Giáo lý thực hành không chỉ dành riêng cho Tăng sỹ; người tu tại giachí hướngnăng lực cũng có thể hành trì một pháp môn thích hợp  với căn cơ của mình; không nhất thiết nơi rừng núi hay thị thành, miễn giữ tâm an định, không bị chi phối bởi ngoại cảnh;Ngài Xá Lợi Phất nói: "Một người có thể sống trong rừng miệt mài với sự tu tập khổ hạnh, nhưng cũng có thể đầy những tư tưởng xấu xabất tịnh, một người khác có thể sống trong làng mạc hay thị thành ,không thực hành kỷ luật ép xác nhưng tâm người đó có thể trong sạch không có cấu bẩn. Trong hai người ấy, Ngài Xá Lợi Phất bảo người sống trong sạch giửa làng mạc thị thành nhất định là cao cả hơn người sống trong rừng nhiều". Như vậy Phật tử tại gia cũng vẫn đượcthừa tự pháp " như bậc xuất gia.

 Đức Phật chỉ đưa ra giải pháp, còn việc thực hiện hay không do chính chúng ta.  Người có tâm hướng thượng, không chỉ là  một tín đồ sùng Phật mà phải là người hành trì để đi đến quả vị giác như chư Phật.

Đức Phật xác định: " Các người nên làm công việc của mình, vì các đức Như Lai chỉ dạy con đường mà thôi " .

Tiến trình tu tập các quả vị gồm năm giai tầng gọi là ngũ thừa, gồm:

Nhân thừa: Nếu muốn ứng dụng nhân thừa việc trước tiên phải phát tâm quy y Tam bảo, đây chính gieo duyên với Phật, Pháp, Tăng trong nhiều đời. Xây dựng cho con người có một nhân cách hoàn thiện 

 Thiên thừaCon đường sanh lên cỏi trời nếu người đó thực hiện mười pháp thiện (thập thiện) gọi thông thường là Thập thiện nghiệp đạo được chia làm 2 phần:  tiêu cực và tích cực.

Thinh văn thừa: Đây Pháp nền tảng giáo lý đạo Phật nó đưa hành giả từ phàm đến thánh,.

Duyên giác thừa: Đây là con đường của hành giả tu theo 12 nhân duyênthập nhị nhân duyênbao gồmVô minh, hành , thức, danh sắclục nhập, xúc,thọ, ái, thủ, hữu , sinh, lão, tử. Do thấu rõ lý duyên sinh của mọi pháp nên hành giả đạt được qủa Duyên giác . Đây là con đường chấm dứt sự khổ đạt được qủa vị Niết Bàn.

 Bồ tát thừa: Đây là con đường thực hành Bồ tát hạnh  con đường độ tha .

                                          ***

Tóm lại; Tu và hành tuy một mà hai, có thể nói hai trong một, vì tu sửa mà không hành trì một pháp môn như chim thiếu cánh; Hành trì mà không giữ giới lạc vào tà giáo. Tinh tấn là luôn quán xét lại đời sông giữa tu và hành của chúng ta , nếu muốn thoát ly sanh tử.

Như Lai đã đến tuổi. Đời sống của Như Lai quả là ngắn ngủi. Rời các con Như Lai sẽ ra đi. Như Lai đã tự mình làm chỗ nương tựa cho mình. Hỡi các Tỳ-kheo, hãy tinh tấn, giữ tâm niệm và sống đời đạo hạnh. Hãy giữ gìn tâm các con bằng những tư tưởng có chiều hướng tốt. Những ai kiên trì, cố ghép nếp sống của mình trong những khuôn khổ dạy trên sẽ bước ra khỏi con đường phiêu bạt vô định của đời sốngchấm dứt khổ não”

Các Tỳ-kheo, đây là chân lý cao cả về khổ nhân: chính ái dục dẫn đến tái sanh, cùng kết cấu với hỷ và tham, tìm kiếm thú vui nơi này, chỗ khác. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.

 

MINH MẪN

19/7/2020
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7324)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4503)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4551)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7285)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2951)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12179)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3982)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3792)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4177)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3663)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5020)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6642)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3989)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4109)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5324)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3776)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4512)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3539)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3920)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4383)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5385)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3838)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3922)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3859)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4815)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4235)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3821)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4618)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4177)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6087)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4591)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4934)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4153)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4795)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5646)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3626)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4018)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4576)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5260)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3129)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4739)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4526)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4273)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4733)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4479)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4584)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7199)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5188)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4983)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4571)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5591)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5257)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4152)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5995)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4703)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4861)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5465)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5601)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5798)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4983)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant