Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vì Sao Ấn Độ Được Gọi Là Thiên Trúc

07 Tháng Tám 202013:58(Xem: 4804)
Vì Sao Ấn Độ Được Gọi Là Thiên Trúc

Vì Sao Ấn Độ Được Gọi Là Thiên Trúc

Thích Trung Định

Nguyên Tắc Để Được Thành Phật

Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần); đặc biệt vào triều đại nhà Đường thường được sử dụng trong tài liệu tham khảo về nguồn gốc của Phật giáo Ấn Độ.

Theo quan điểm của người Nhật, thế giới cổ đại duy chỉ tồn tại có ba nước mà họ chỉ định là ba vương quốc cõi trời, đó là Nhật Bản (Yamoto), Trung Quốc (Zhongguo), và Ấn Độ (Tenjiku).

Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại, có các tuyến đường mậu dịch mang tính lịch sử cùng những đế quốc rộng lớn, và trở nên giàu có về thương mạivăn hóa trong hầu hết lịch sử lâu dài của mình. Đây cũng là nơi bắt nguồn của bốn tôn giáo lớn: Ấn Độ giáoPhật giáo, Jaina giáo và Sikh giáo.

Vào thời nhà Đường Phật giáo phát triển mạnh. Những tinh hoa của giáo lý Phật giáo đều nở rộ trong thời đại này. Mà Phật giáo lại xuất phát từ Ấn Độ, nên hầu như mọi người Trung Quốc đều ngưỡng mộ đất nước đã sinh ra bậc Thầy tinh thần vĩ đại của nhân loại đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chúng ta cũng thấy rất rõ thiện chí này trong tư tưởng của Huyền Trang đại sư. Ngài luôn nghĩ rằng, lời dạy của đức Phật còn nguyên vẹn thì chỉ có ở Ấn Độ. Chính suy nghĩ này đã thúc đẩy ngài lên đường Tây du để thỉnh kinh. Và đã diễn ra cuộc thỉnh kinh vĩ đại vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Phật giáo. Trong các thư tịch Trung Quốc, thời nhà Hán gọi khu vực là “Thân Độc” (身毒), hay “Thiên Trúc” (天竺). Tên gọi Ấn Độ (tiếng Trung: 印度; bính âm: Yìndù) xuất hiện lần đầu trong “Đại Đường Tây Vực ký” của cao tăng Huyền Trang đời nhà Đường. Trong bộ sách này cụm từ “Tây Trúc” hay “Thiên Trúc” được ngài Huyền Trang sử dụng lặp đi lặp lại rất nhiều lần.

Đối với người Nhật Bản, Ấn Độ được biết đến như Thiên Trúc Tenjiku vì là nơi sinh ra Đức Phật, một bậc thầy vĩ đại của trời, người. Mặc dù người Nhật đã có một tôn giáo bản địa gọi là “Thần đạo”, nhưng họ rất ấn tượng với triết lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong Shinto, kami được định nghĩa trong tiếng Anh là tinh thần tinh chất hay vị thần được liên kết với nhiều hình thức trong một số trường hợp đối với con người.

 Theo quan điểm của Thần đạo thì thế giới ‘duy linh’ hay ‘năng lượng tự nhiên’ trong thế giới hữu hình như mặt trời, mặt trăng, sông, núi, cỏ cây...đều có sự kết nối mật thiết với con người. Trong Shinto, thế giới ‘duy linh’ không tách biệt mọi người mà chúng cùng tồn tại, cùng ảnh hưởng lẫn nhau. Shinto là một tôn giáo dựa trên vẻ đẹp tự nhiên của Nhật Bản. Nó bắt đầu trong mọi thứ quyền lực do một vị thần hoặc kami, tương tự như một hào quang sống.

Người Nhật Bản tìm thấy Phật giáo đặc biệt hấp dẫn bởi vì Phật giáo Đại thừa cung cấp cho họ rất nhiều hình thức của sự thờ phượng và những nghi lễ tâm linh. Đều này tương ứng với kami trong Shinto giáo. Trong đạo Phật, người Nhật tìm thấy một sức mạnh kỳ diệu để chữa trị tâm bệnh. Đặc biệtgiáo lý từ bi, sự cảm thông chia sẻ và sự giải thoát khỏi những ưu phiền, đau khổ. Không giống như Shinto, Phật giáoTam tạng kinh điển, một nền văn học tôn giáo đồ sộ, một học thuyết thâm sâu, phong phú, đủ đáp ứng cho con người vô số giáo lý nhằm cung ứng cho những căn cơ trình độ khác nhau, ai cũng có thể tiếp nhận, tu tập để kiến tạo sự an lạc giải thoát trong giáo lý ấy. Hơn thế nữa, Phật giáo có một tổ chức Tăng đoàn thanh tịnhhòa hợp. Họ là những con người luôn thể hiện tinh thần ‘thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh’, tiếp nối thay Phật truyền bá lời Phật dạy tại thế gian này. Phật giáo còn có một truyền thống rực rỡ của nghệ thuật tôn giáo và kiến ​​trúc điêu khắc đặc thù. Nghệ thuật tạc tượng và nghệ thuật kiến trúc chùa chiền mang tính hài hòa và trình độ thẩm mỹ cao.

Người Nhật thiếu những nền triết thuyết tôn giáo vĩ đại như Ấn Độ. Họ đã rất choáng ngợp bởi các kinh điển Phật giáo, triết học, và các và các công trình kiến trúc nghệ thuật Phật giáo. Từ những ấn tượng đó, bắt đầu họ xem Ấn Độ là ‘Tenjiku’ Thiên Trúc (天竺)  một cõi Thiên đường đã tồn tại ở phía Tây. Đó là những ấn tượng tốt đẹp, một nơi đáng mơ ước để đến chiêm bái, kính lễphụng thờ.

Từ Tenjiku đến Indo

Hình ảnh Ấn Độ được xem như Thiên Trúc mang một ý nghĩa tinh thần và sự yên bình bắt đầu thay đổi sau khi người ta phát hiện ra các tuyến đường biển trong thế kỷ 15, các thương gia châu Âu bắt đầu đến Ấn Độ. Không giống các du khách Trung Quốc như ngài Pháp HiểnHuyền Trang đến Ấn Độ để chiêm bái các Thánh tích Phật giáo và để thỉnh Tang tạng kinh điển. Những du khách châu Âu đến Ấn Độ với mục đích tìm kiếm của cải vật chất như trà, hàng dệt may, gia vị, gấm lụa và các vật phẩm quý hiếm khác. Các thương nhân này đến Ấn Độ họ mang theo một nền văn hóa mới gọi là: Namban Bunka và nhiều mặt hàng hấp dẫn và quý hiếm như ngà voi, ngọc traicác loại gia vị. Như vậy, từ thế kỷ thứ 15 trở đi, người ta đến Ấn Độ với mục đích để buôn bán, trao đổi hàng hóa chứ không còn đến với ý nghĩa tinh thần cao quý như trước đây nữa. Hơn nữa, vào thời điểm này đất nước Ấn Độ đã bị hồi giáo xâm lược. Các thánh tích Phật giáo đều bị quân Hồi giáo tàn phá, vùi lấp. Những tu sỹ cũng bị chém giết, một số sống sót thì phải lưu vong, dần dần Phật giáo cũng đã biến mất khỏi đất nước sinh ra nó.

Sự biến đổi thế cuộc trong chính trị và tôn giáoẤn Độ diễn ra làm hình ảnh của một đất nước được ví như “thiên đường” hoàn toàn biến mất trong nhận thức chung của mọi người. Biểu tượng ‘Thiên Trúc’ của Ấn Độ được thay đổi qua một thuật ngữ khác đó là Indo. Indo nghĩa là ‘Đông dương’ nó cũng mang một ý nghĩa của sự sung túc. Chính vì sự sung túc trong các hàng hóa, vật liệu quý hiếm nên người ta đến Ấn Độ để giao tiếp thương mại nhiều hơn là ý nghĩa tâm linh vốn có của họ. Tên gọi India bắt nguồn từ Indus, từ này lại bắt nguồn từ một từ tiếng Ba Tư cổ là Hinduš. Thân từ của thuật ngữ tiếng Ba Tư bắt nguồn từ tiếng Phạn Sindhu, là tên gọi bản địa có tính lịch sử của sông Ấn (Indus). Người Hy Lạp cổ đại gọi người Ấn Độ là Indoi (Ινδοί), có thể dịch là “người của Indus”.

Vào giữa thế kỷ XIX khi Ấn Độ trở thành thuộc địa chính thức của Vương quốc Anh. Vào thời điểm đó, Trung Quốc cũng bị mất chủ quyền. Nền văn hóa truyền thống lâu đời của họ cũng bị ảnh hưởng. Từ đó, người Nhật Bản xem hai đất nước này trở nên “tiêu cực”  mà Nhật Bản không muốn đặt quan hệ ngoại giao. Sự biến dạng văn hóa và phong cách sống của người dân Ấn Độ đã làm thay đổi hình ảnh đẹp đẽ Thiên Trúc của mình trong tâm thức của người Nhật nói riêng và thế giới nói chung. Ngày nay, khái niệm Thiên Trúc không còn nữa. Cụm từ hoa mỹ này đã đi vào dĩ vãng. Nhưng sự ảnh hưởng của nó trong một thời gian lâu xa đã cho thấy sự kính ngưỡng của người con Phật đối với đất nước sản sinh ra Đức Phật, bậc thầy vĩ đại của nhân loại vẫn cong nguyên vẹn. Hiện nay, Phật giáo tại Ấn Độ đang dần dần phát triển trở lại. Người Ấn vẫn tự hào vì đất nước của họ đã sinh ra Đức Phật và là nơi khơi nguồn của Đạo Phật. Nhiều di tích mang dấu ấn của Đức Phật vẫn được chính phủ Ấn Độ giữ gìn cẩn thận. Hệ thống Phật tích được khám phá gần như toàn diện bởi các nhà khảo cổ học danh tiếng. Hằng năm, nhiều đoàn hành hương của người con Phật từ khắp nơi trên thế giới đều tìm về đây chiêm báiđảnh lễ. Khi được trải nghiệm thực tế trên đất Phật họ cảm nhận được năng lượng mầu nhiệm từ Đức Phật dường như vẫn còn hiện hữu nguyên vẹn. Chúng ta cảm ơntri ân họ, người Ấn hiền hòa dễ thương đã trân quý và lưu giữ những thánh tích Phật giáo còn nguyên vẹn. Giá trị tâm linh của những thánh tíchmiên viễn, để nguồn mạch Phật đạo vẫn luôn tuôn chảy mang lại lợi lạc cho mọi người trên thế giới này.

Thích Trung Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14601)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14035)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14926)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16535)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29849)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16194)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15521)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14866)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14857)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17854)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15553)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38630)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26695)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39617)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50719)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38704)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35005)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18279)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16445)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42365)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39206)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35577)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17437)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46473)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17133)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28476)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18970)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17569)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17090)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17526)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16503)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16854)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30807)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16921)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18482)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18428)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17365)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18142)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17052)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23452)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16970)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17443)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17637)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17044)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15718)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18007)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17374)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17163)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29488)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27687)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18147)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16086)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15331)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 22986)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14807)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55076)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14172)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13237)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14150)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15488)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant