Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vì Sao Ấn Độ Được Gọi Là Thiên Trúc

07 Tháng Tám 202013:58(Xem: 4799)
Vì Sao Ấn Độ Được Gọi Là Thiên Trúc

Vì Sao Ấn Độ Được Gọi Là Thiên Trúc

Thích Trung Định

Nguyên Tắc Để Được Thành Phật

Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần); đặc biệt vào triều đại nhà Đường thường được sử dụng trong tài liệu tham khảo về nguồn gốc của Phật giáo Ấn Độ.

Theo quan điểm của người Nhật, thế giới cổ đại duy chỉ tồn tại có ba nước mà họ chỉ định là ba vương quốc cõi trời, đó là Nhật Bản (Yamoto), Trung Quốc (Zhongguo), và Ấn Độ (Tenjiku).

Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại, có các tuyến đường mậu dịch mang tính lịch sử cùng những đế quốc rộng lớn, và trở nên giàu có về thương mạivăn hóa trong hầu hết lịch sử lâu dài của mình. Đây cũng là nơi bắt nguồn của bốn tôn giáo lớn: Ấn Độ giáoPhật giáo, Jaina giáo và Sikh giáo.

Vào thời nhà Đường Phật giáo phát triển mạnh. Những tinh hoa của giáo lý Phật giáo đều nở rộ trong thời đại này. Mà Phật giáo lại xuất phát từ Ấn Độ, nên hầu như mọi người Trung Quốc đều ngưỡng mộ đất nước đã sinh ra bậc Thầy tinh thần vĩ đại của nhân loại đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chúng ta cũng thấy rất rõ thiện chí này trong tư tưởng của Huyền Trang đại sư. Ngài luôn nghĩ rằng, lời dạy của đức Phật còn nguyên vẹn thì chỉ có ở Ấn Độ. Chính suy nghĩ này đã thúc đẩy ngài lên đường Tây du để thỉnh kinh. Và đã diễn ra cuộc thỉnh kinh vĩ đại vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Phật giáo. Trong các thư tịch Trung Quốc, thời nhà Hán gọi khu vực là “Thân Độc” (身毒), hay “Thiên Trúc” (天竺). Tên gọi Ấn Độ (tiếng Trung: 印度; bính âm: Yìndù) xuất hiện lần đầu trong “Đại Đường Tây Vực ký” của cao tăng Huyền Trang đời nhà Đường. Trong bộ sách này cụm từ “Tây Trúc” hay “Thiên Trúc” được ngài Huyền Trang sử dụng lặp đi lặp lại rất nhiều lần.

Đối với người Nhật Bản, Ấn Độ được biết đến như Thiên Trúc Tenjiku vì là nơi sinh ra Đức Phật, một bậc thầy vĩ đại của trời, người. Mặc dù người Nhật đã có một tôn giáo bản địa gọi là “Thần đạo”, nhưng họ rất ấn tượng với triết lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong Shinto, kami được định nghĩa trong tiếng Anh là tinh thần tinh chất hay vị thần được liên kết với nhiều hình thức trong một số trường hợp đối với con người.

 Theo quan điểm của Thần đạo thì thế giới ‘duy linh’ hay ‘năng lượng tự nhiên’ trong thế giới hữu hình như mặt trời, mặt trăng, sông, núi, cỏ cây...đều có sự kết nối mật thiết với con người. Trong Shinto, thế giới ‘duy linh’ không tách biệt mọi người mà chúng cùng tồn tại, cùng ảnh hưởng lẫn nhau. Shinto là một tôn giáo dựa trên vẻ đẹp tự nhiên của Nhật Bản. Nó bắt đầu trong mọi thứ quyền lực do một vị thần hoặc kami, tương tự như một hào quang sống.

Người Nhật Bản tìm thấy Phật giáo đặc biệt hấp dẫn bởi vì Phật giáo Đại thừa cung cấp cho họ rất nhiều hình thức của sự thờ phượng và những nghi lễ tâm linh. Đều này tương ứng với kami trong Shinto giáo. Trong đạo Phật, người Nhật tìm thấy một sức mạnh kỳ diệu để chữa trị tâm bệnh. Đặc biệtgiáo lý từ bi, sự cảm thông chia sẻ và sự giải thoát khỏi những ưu phiền, đau khổ. Không giống như Shinto, Phật giáoTam tạng kinh điển, một nền văn học tôn giáo đồ sộ, một học thuyết thâm sâu, phong phú, đủ đáp ứng cho con người vô số giáo lý nhằm cung ứng cho những căn cơ trình độ khác nhau, ai cũng có thể tiếp nhận, tu tập để kiến tạo sự an lạc giải thoát trong giáo lý ấy. Hơn thế nữa, Phật giáo có một tổ chức Tăng đoàn thanh tịnhhòa hợp. Họ là những con người luôn thể hiện tinh thần ‘thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh’, tiếp nối thay Phật truyền bá lời Phật dạy tại thế gian này. Phật giáo còn có một truyền thống rực rỡ của nghệ thuật tôn giáo và kiến ​​trúc điêu khắc đặc thù. Nghệ thuật tạc tượng và nghệ thuật kiến trúc chùa chiền mang tính hài hòa và trình độ thẩm mỹ cao.

Người Nhật thiếu những nền triết thuyết tôn giáo vĩ đại như Ấn Độ. Họ đã rất choáng ngợp bởi các kinh điển Phật giáo, triết học, và các và các công trình kiến trúc nghệ thuật Phật giáo. Từ những ấn tượng đó, bắt đầu họ xem Ấn Độ là ‘Tenjiku’ Thiên Trúc (天竺)  một cõi Thiên đường đã tồn tại ở phía Tây. Đó là những ấn tượng tốt đẹp, một nơi đáng mơ ước để đến chiêm bái, kính lễphụng thờ.

Từ Tenjiku đến Indo

Hình ảnh Ấn Độ được xem như Thiên Trúc mang một ý nghĩa tinh thần và sự yên bình bắt đầu thay đổi sau khi người ta phát hiện ra các tuyến đường biển trong thế kỷ 15, các thương gia châu Âu bắt đầu đến Ấn Độ. Không giống các du khách Trung Quốc như ngài Pháp HiểnHuyền Trang đến Ấn Độ để chiêm bái các Thánh tích Phật giáo và để thỉnh Tang tạng kinh điển. Những du khách châu Âu đến Ấn Độ với mục đích tìm kiếm của cải vật chất như trà, hàng dệt may, gia vị, gấm lụa và các vật phẩm quý hiếm khác. Các thương nhân này đến Ấn Độ họ mang theo một nền văn hóa mới gọi là: Namban Bunka và nhiều mặt hàng hấp dẫn và quý hiếm như ngà voi, ngọc traicác loại gia vị. Như vậy, từ thế kỷ thứ 15 trở đi, người ta đến Ấn Độ với mục đích để buôn bán, trao đổi hàng hóa chứ không còn đến với ý nghĩa tinh thần cao quý như trước đây nữa. Hơn nữa, vào thời điểm này đất nước Ấn Độ đã bị hồi giáo xâm lược. Các thánh tích Phật giáo đều bị quân Hồi giáo tàn phá, vùi lấp. Những tu sỹ cũng bị chém giết, một số sống sót thì phải lưu vong, dần dần Phật giáo cũng đã biến mất khỏi đất nước sinh ra nó.

Sự biến đổi thế cuộc trong chính trị và tôn giáoẤn Độ diễn ra làm hình ảnh của một đất nước được ví như “thiên đường” hoàn toàn biến mất trong nhận thức chung của mọi người. Biểu tượng ‘Thiên Trúc’ của Ấn Độ được thay đổi qua một thuật ngữ khác đó là Indo. Indo nghĩa là ‘Đông dương’ nó cũng mang một ý nghĩa của sự sung túc. Chính vì sự sung túc trong các hàng hóa, vật liệu quý hiếm nên người ta đến Ấn Độ để giao tiếp thương mại nhiều hơn là ý nghĩa tâm linh vốn có của họ. Tên gọi India bắt nguồn từ Indus, từ này lại bắt nguồn từ một từ tiếng Ba Tư cổ là Hinduš. Thân từ của thuật ngữ tiếng Ba Tư bắt nguồn từ tiếng Phạn Sindhu, là tên gọi bản địa có tính lịch sử của sông Ấn (Indus). Người Hy Lạp cổ đại gọi người Ấn Độ là Indoi (Ινδοί), có thể dịch là “người của Indus”.

Vào giữa thế kỷ XIX khi Ấn Độ trở thành thuộc địa chính thức của Vương quốc Anh. Vào thời điểm đó, Trung Quốc cũng bị mất chủ quyền. Nền văn hóa truyền thống lâu đời của họ cũng bị ảnh hưởng. Từ đó, người Nhật Bản xem hai đất nước này trở nên “tiêu cực”  mà Nhật Bản không muốn đặt quan hệ ngoại giao. Sự biến dạng văn hóa và phong cách sống của người dân Ấn Độ đã làm thay đổi hình ảnh đẹp đẽ Thiên Trúc của mình trong tâm thức của người Nhật nói riêng và thế giới nói chung. Ngày nay, khái niệm Thiên Trúc không còn nữa. Cụm từ hoa mỹ này đã đi vào dĩ vãng. Nhưng sự ảnh hưởng của nó trong một thời gian lâu xa đã cho thấy sự kính ngưỡng của người con Phật đối với đất nước sản sinh ra Đức Phật, bậc thầy vĩ đại của nhân loại vẫn cong nguyên vẹn. Hiện nay, Phật giáo tại Ấn Độ đang dần dần phát triển trở lại. Người Ấn vẫn tự hào vì đất nước của họ đã sinh ra Đức Phật và là nơi khơi nguồn của Đạo Phật. Nhiều di tích mang dấu ấn của Đức Phật vẫn được chính phủ Ấn Độ giữ gìn cẩn thận. Hệ thống Phật tích được khám phá gần như toàn diện bởi các nhà khảo cổ học danh tiếng. Hằng năm, nhiều đoàn hành hương của người con Phật từ khắp nơi trên thế giới đều tìm về đây chiêm báiđảnh lễ. Khi được trải nghiệm thực tế trên đất Phật họ cảm nhận được năng lượng mầu nhiệm từ Đức Phật dường như vẫn còn hiện hữu nguyên vẹn. Chúng ta cảm ơntri ân họ, người Ấn hiền hòa dễ thương đã trân quý và lưu giữ những thánh tích Phật giáo còn nguyên vẹn. Giá trị tâm linh của những thánh tíchmiên viễn, để nguồn mạch Phật đạo vẫn luôn tuôn chảy mang lại lợi lạc cho mọi người trên thế giới này.

Thích Trung Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2660)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6125)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3038)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3092)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3296)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3225)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3296)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4544)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2720)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5201)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3841)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3832)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3198)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4120)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5034)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3510)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6734)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3951)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3217)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3088)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2953)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5845)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4616)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3482)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2892)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3303)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4416)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5710)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6621)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3691)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4524)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4597)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3956)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3387)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4606)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6032)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5818)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3622)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4676)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4448)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4515)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4257)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4587)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8190)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3909)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5716)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5185)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6801)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6164)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5981)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5792)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6273)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6773)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4954)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5558)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6378)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3777)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5400)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10448)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6067)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant