Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Siêu Tán Thán – Tán (Ca Tụng Đấng Vượt Trên Ca Tụng)

02 Tháng Mười 202017:43(Xem: 4087)
Siêu Tán Thán – Tán (Ca Tụng Đấng Vượt Trên Ca Tụng)
Siêu Tán Thán – Tán (Ca Tụng Đấng Vượt Trên Ca Tụng)
Stutyatitastava; bstod pa las ’das par bstod pa)
In Praise of The One Beyond Praise

Bản dịch Anh: Karl Brunnholzl
LONG THỌ
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

hoa sen



[1]

Như Lai ngài đã du hành

Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng

Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ

Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.

[2]

Dù ngài thấy các pháp đều rỗng thông

Chẳng có tự ngã, tha ngã, và tự ngã và tha ngã

Đại bi của ngài chẳng rời bỏ các hữu tình

_ Thật vô cùng huyền diệu!

[3]

Chẳng sinh khởi từ bất kỳ yếu tính tự hữu

Và trong phương trời viễn ly ngôn ngữ

Các pháp mà ngài đã thuyết giảng

Tượng trưng trạng thái vô cùng huyền diệu của ngài.

[4]

Các uẩn, các xứ, và các giới

Ngài trên thực tế đã tuyên thuyết

Nhưng bất kỳ chấp thủ nào vào chúng

Ngài cũng đã hóa giải trong sát na tương tục.

[5]

Chẳng đến từ các duyên

Làm thế nào để các thực thể sinh khởi từ các duyên?

Thông qua tuyên thuyết như thế, thưa Đấng Thánh Trí,

Ngài đã xóa bỏ các điểm quy chiếu cấu trúc của tưởng.

[6]

Sự duyên hội xảy ra do bởi một tập hợp các nguyên nhân

Các thực thể sinh khởi từ tập hợp này làm nguyên nhân của chúng

Những kẻ nào thấy nó theo cách đó, tin cậy vào đối lập song đối

Thưa Đạo sư, ngài thấy chúng tin như vậy mà chẳng hề hoài nghi.

[7]

Các thực thể xảy ra trong sự tùy thuộc vào các duyên

Điều này thực sự ngài vẫn tuyên thuyết.

Nhưng nó bị hiểu sai rằng các thực thể được sinh khởi một cách thực hữu

Thưa Đạo sư, ngài cũng được thấy bởi hữu tình là thực hữu.

[8]

Chẳng đến từ bất kỳ đâu,

Chẳng đi bất kỳ đâu,

Tất cả các thực thể đều tương tợ các phản chiếu trong gương –

Đây là điều ngài đã liên tục nhấn mạnh.

[9]

Để buông bỏ tất cả các tri kiến

Thưa đấng bảo hộ, ngài đã tuyên bố các thực thể đều là không (= rỗng thông chẳng có yếu tính tự hữu).

Nhưng cái đó cũng chỉ là tên tạm đặt, được quy ước theo tập quán

Thưa đấng bảo hộ -- ngài chẳng chủ trương tánh không này là thực hữu.

[10]

Ngài cũng chẳng xác định không, hoặc bất không,

Ngài cũng chẳng tán thành – không và bất không, chẳng không và chẳng bất không.

Không tranh biện theo lối bất chấp đúng, sai về biểu ngữ này –

Đó là cách thức thông hiểu diệu ngữ của ngài.

[11]

Ngài đã tuyên bố, “Chẳng có các thực thể nào không là các dị biệt,

Cũng chẳng có bất kỳ các thực thể là các dị biệt; cũng chẳng có cả hai: dị biệt và không dị biệt”,  

Bởi vì trạng thái đồng nhất hoặc dị biệt được buông bỏ,

Xem xét theo bất kỳ cách nào, các thực thể đều chẳng tồn tại.

[12]

Nếu bộ ba của sinh trụ diệt đã tồn tại,

Các đặc tướng của các hiện tượng nhân duyên sẽ tồn tại,

Và chúng tất cả ba, tỉ dụ sinh trụ diệt,

Cũng sẽ là dị biệt.

[13]

Nếu nó có yếu tính tự hữu, mỗi một trong bộ ba, tỉ dụ sinh trụ diệt,

Chẳng có khả năng vận hành chức năng theo nhân duyên.

Cũng chẳng có hội hiệp

Của cái này cùng đến với cái kia.

[14]

Xét như thế, các thực thể cũng chẳng có đặc tướng, và cũng chẳng có yếu tính tự hữu,

Bởi vì chúng đều không được an lập theo cách có đặc tướng hoặc có yếu tính tự hữu,

Các hiện tượng hình thành bởi nhân duyên đều chẳng được an lập,

Thì nói chi đến các hiện tượng hình thành bởi phi nhân duyên được an lập.

[15]

Thưa đấng sư tử ngôn thuyết, giảng thuyết của ngài

Đúng là sư tử hống trục xuất

Thanh âm ngu muội ái luyến cái tự ngã của các con voi Vindhya

Vang qua cái vòi ống bễ của chúng.

[16]

Để được xứng đáng với phẩm đức của những kẻ đã khởi hành trên một đạo lộ

Không phụ thuộc vào các thứ nguy hại, hoặc đạo lộ tồi tệ của các tà kiến,

Mà chỉ phụ thuộc vào Ngài,

Chúng tôi không phụ thuộc vào hữu hoặc phi hữu.

[17]

Những kẻ lý hội thông hiểu đúng đắn

Những gì ngài đã giảng về trách nhiệm tương liên của các hệ quả

Chẳng cần thiết phải lý hội thông hiểu thêm một lần nữa

Những gì ngài đã giảng về trách nhiệm tương liên của các hệ quả.

[18]

Trong những kẻ lý hội thông hiểu

Tất cả các pháp đều đồng đẳng với niết bàn,

Làm thế nào có thể có bất kỳ chấp thủ vào “tôi”

Sinh khởi nơi một nhân sinh quan như thế?

[19]

Thông qua phẩm đức tôi kiến lập khi ca tụng ngài,

Đấng vô thượng của các Giác giả,

Đấng Giác giả về pháp tính,

Nguyện tất cả hữu tình trong thế giới đều trở thành các Vô thượng Giác giả.

-----------------------------------------------------------------------

Nagarjuna. Stutyatitastava. In Praise of The One Beyond Praise.

Translated by Karl Brunnholzl

(Source: In Praise of Dharmadhatu by Nagarjuna. Commentary by the third Karmapa. Translated and Introduced by Karl Brunnholzl. Snow Lion 2007—pp 315-317)

****

[1]

The Tathagata who has traveled

The unsurpassable path is beyond praise,

But with a mind full of respect and joy,

I will praise the one beyond praise.

[2]

Though you see entities being devoid

Of self, other, and both,

Your compassion does not turn away

From sentient beings – how marvelous!

[3]

Not arisen by any nature

And in the sphere beyond words –

The dharmas that you taught

Represent your being marvelous.

[4]

The skandhas, dhatus, and ayatanas

You have indeed proclaimed,

But any clinging to them too

You countered later on.

[5]

Not coming from conditions,

How could entities arise from conditions?

Through saying so, O wise one,

You cut through reference points.

[6]

Coming about due to a collection [of causes],

[Entities] originate from this collection as their causes –

That those who see it that way rely on the two extremes

Is what you see very clearly.

[7]

That entities [just] come about in dependence on conditions

Is what you have maintained indeed.

But it being a flaw that they are [truly] produced that way

You, O teacher, have seen like that.

[8]

Neither coming from anywhere,

Nor going anywhere,

All entities are similar to reflections –

This is what you held.

[9]

In order to relinquish all views,

O protector, you declared [entities] to be empty.

But that too is an imputation,

O protector – you did not hold that this is really so.

[10]

You assert neither empty nor nonempty,

Nor are you pleased with both.

There is no dispute about this –

It is the approach of your great speech.

[11]

“There are no entities that are not other,

Nor any that are other, nor both”, you said.

Since being one or other is abandoned,

No matter which way, entities do not exist.

[12]

If the triad of arising and so on existed,

The characteristics of conditioned phenomena would exist,

And all three of them, such as arising,

Would be different as well.

[13]

On its own, each one of the three, such as arising,

Is incapable of conditioned functioning.

Also, there is no meeting

Of one coming together with another.

[14]

Thus, neither characteristics nor their basis exist.

Since they are not established this way,

Conditioned phenomena are not established,

Let alone unconditioned phenomena being established.

[15]

O lion of speech, your speaking like that

Is just like a lion [‘s roar] dispelling

The self-infatuation of Vindhya - elephants

With their trumpeting.

[16]

Just as people embarked on a path

Do not rely on various harmful things

Or bad path of [wrong] views, through rely on you,

We rely on neither existence nor nonexistence.

[17]

Those who understand properly

What you said with implications

Need not understand again

What you said with implications.

[18]

In those who understand

All entities to be equal to nirvana,

How could any clinging to “me”

Arise at such a point.

[19]

Through my merit of praising you,

The supreme of knowers,

The knower of true reality,

May [all beings in] the world become supreme knowers.

------------------------------------------------------------------------

Ghi chú của bản Việt

Entities: các thực thể ; các pháp.

Conditions: các duyên

Conditioned phenomena: các hiện tượng nhân duyên; các hiện tượng hữu vi

Just: adj.

1.acting of being conformity with what is morally upright or equitable; honest and impartial.

2a. being what is merited; deserved. 2b legally correct.

3a. conforming to fact or reason; well-founded.3b.  conforming to a standard of correctness; proper.

Phụ Bản

Thánh Pháp Nhập Lăng già.
Phạn bản tân dịch Phước Nguyên

*

1. Phật bằng trí bi nhìn thế gian,
Nó như là hoa đốm hư không,
Không thể nói là sinh hay diệt,
Nên không thể nói hữu hay vô.

2. Phật bằng trí bi nhìn thế pháp,
Thực tế nó như vật huyễn ảo.
Do nó xa lìa nơi thức trí,
Nên không thể nói hữu hay vô.

3. Phật bằng trí bi nhìn thế gian
Nó giống như là một mộng cảnh,
Không thể nói nó đoạn hay thường,
Nên không thể nói hữu hay vô.

4. Pháp thân tự tính như mộng huyễn,
Ở đó có gì để khen ngợi?
Tán lễ tức không nắm lấy hữu,
Cũng không nắm lấy vô tự tính.

5. Pháp hiện tồn nhưng không thể thấy,
Do nó siêu việt thức và cảnh,
Mâu-ni siêu việt pháp trần cảnh,
Nơi đó có gì đáng khen chê?

6. Phật bằng trí bi lìa hình sắc,
Lại chứng nhân-pháp đều vô ngã ,
Do đây Phật thường hằng thanh tịnh,
Lìa phiền não chướng, sở tri chướng.

7. Phật không diệt ở trong Niết-bàn,
Cũng không trụ ở trong Niết-bàn,
Năng giác, sở giác thảy đều ly,
Cũng lại ly nơi hữu, phi hữu.

8. Nếu ai thấy Mâu-ni như vậy,
Tịch tĩnh, viễn ly nơi sinh tử.
Người đó đời này và đời sau,
Thanh tịnh phược thủ và vô cấu.

--------------------------------------------

Nguyệt Xứng

Giải thích “Sáu mươi kệ tụng biện luận lý tính duyên khởi” của Long Thọ (Kệ tụng 1 - 6)

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Bản dịch Anh: Nagarjuna’s Reason Sixty with Chandrakirti’s Commentary (Yuktisastikavrtti). Translated from Tibetan by Joseph Loizzo, and the AIBS Translation Team (2007).

*

Những người thường tục chủ trương yếu tính tự hữu thì cũng tương tự như những người thường tục xem các hình ảnh trong gương là thực hữu; họ không có khả năng nhận định rằng các sự vật trong thực tế chẳng có yếu tính tự hữu.

Nhưng, vì mục đích của giáo pháp giúp cho những trí giả cũng giống như những người đã chiêm nghiệm với các hình ảnh trong gương, có năng lực nhận định các sự vật / các tồn tại đều chẳng có yếu tính tự hữu “đều có năng lựchội thông hiểu điều này”, ngài Long Thọ nói:

  1. Những trí giả mà trí của họ vượt ngoài hữu và phi hữu, và chẳng trú ở khoảng giữa hữu và phi hữu, thấy được ý nghĩa của “duyên”: bất khả tư nghị, và tùy thuộc / không độc lập / không tự lập / không có yếu tính tự hữu / không khách quan / bị nhuốm màu cảm xúc.

-----------------------------------------------

Kinh Phổ Diệu. Lalitavistara

(Không thường hằng, không đoạn diệt)

Khi có một hạt giống, có một mầm nhưng hạt giống không là mầm. Nó không phải là một cái khác, tuy nó cũng không là cái đồng nhất. Và do thế không có thường hằng hoặc đoạn diệt.

When there is a seed, there is a sprout, but the seed is not the sprout. It is not something else, though it is not the same thing either. And so there is no permanence or ending.

(Lalitavistara. The Voice of the Buddha. The Beauty of Compassion - p. 264. Kinh Phổ Diệu)

**

Tất cả các pháp hữu vi hiện hữu đều thành lập từ các nguyên nhân và các duyên; các nguyên nhân tạo thành các duyên, các duyên tạo thành các nguyên nhân: chúng tương trợ lẫn nhau. Kẻ ngu không hiểu điều này.

"All composites exist proceeding from causes and conditions; causes make conditions, and conditions, causes: they support each other. The ignorant do not understand this."

(The Lalitavistara. The Voice of the Buddha. The Beauty of Compassion. Kinh Phổ Diệu. Vol 1, p. 263)

--------------------------------------

Nguyệt Xứng. Minh Cú Luận.

Candrakirti. Prasannapada. Lucid Expostion of the Middle Way.

Nếu có một hạt giống, có một mầm, tuy hạt giống không là mầm, cũng không là một cái khác hoàn toàn. Đây là lý do tại sao bản chất của các sự vật cũng không là đoạn diệt, cũng không là thường hằng.

It is said in the Lalitavistara: 'If there is a seed, there is a sprout, though the seed is not the sprout, nor is it wholly other. This is why the nature of things is neither perishable nor eternal. (p. 185)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1611)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1005)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1478)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1461)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1635)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1903)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1481)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1320)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1343)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1513)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1116)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1240)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1244)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1671)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1619)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2909)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1796)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1352)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1204)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1264)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1374)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1294)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1891)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1645)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1862)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1789)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2366)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1771)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2096)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2159)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2276)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1825)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1943)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1997)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1914)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2564)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1913)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1845)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1918)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1865)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2128)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2266)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1943)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2046)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1829)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1881)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2384)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2291)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3908)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2450)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3152)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2436)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2024)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1780)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3283)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2324)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2997)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2674)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 2004)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant