Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Siêu Tán Thán – Tán (Ca Tụng Đấng Vượt Trên Ca Tụng)

02 Tháng Mười 202017:43(Xem: 4119)
Siêu Tán Thán – Tán (Ca Tụng Đấng Vượt Trên Ca Tụng)
Siêu Tán Thán – Tán (Ca Tụng Đấng Vượt Trên Ca Tụng)
Stutyatitastava; bstod pa las ’das par bstod pa)
In Praise of The One Beyond Praise

Bản dịch Anh: Karl Brunnholzl
LONG THỌ
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

hoa sen



[1]

Như Lai ngài đã du hành

Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng

Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ

Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.

[2]

Dù ngài thấy các pháp đều rỗng thông

Chẳng có tự ngã, tha ngã, và tự ngã và tha ngã

Đại bi của ngài chẳng rời bỏ các hữu tình

_ Thật vô cùng huyền diệu!

[3]

Chẳng sinh khởi từ bất kỳ yếu tính tự hữu

Và trong phương trời viễn ly ngôn ngữ

Các pháp mà ngài đã thuyết giảng

Tượng trưng trạng thái vô cùng huyền diệu của ngài.

[4]

Các uẩn, các xứ, và các giới

Ngài trên thực tế đã tuyên thuyết

Nhưng bất kỳ chấp thủ nào vào chúng

Ngài cũng đã hóa giải trong sát na tương tục.

[5]

Chẳng đến từ các duyên

Làm thế nào để các thực thể sinh khởi từ các duyên?

Thông qua tuyên thuyết như thế, thưa Đấng Thánh Trí,

Ngài đã xóa bỏ các điểm quy chiếu cấu trúc của tưởng.

[6]

Sự duyên hội xảy ra do bởi một tập hợp các nguyên nhân

Các thực thể sinh khởi từ tập hợp này làm nguyên nhân của chúng

Những kẻ nào thấy nó theo cách đó, tin cậy vào đối lập song đối

Thưa Đạo sư, ngài thấy chúng tin như vậy mà chẳng hề hoài nghi.

[7]

Các thực thể xảy ra trong sự tùy thuộc vào các duyên

Điều này thực sự ngài vẫn tuyên thuyết.

Nhưng nó bị hiểu sai rằng các thực thể được sinh khởi một cách thực hữu

Thưa Đạo sư, ngài cũng được thấy bởi hữu tình là thực hữu.

[8]

Chẳng đến từ bất kỳ đâu,

Chẳng đi bất kỳ đâu,

Tất cả các thực thể đều tương tợ các phản chiếu trong gương –

Đây là điều ngài đã liên tục nhấn mạnh.

[9]

Để buông bỏ tất cả các tri kiến

Thưa đấng bảo hộ, ngài đã tuyên bố các thực thể đều là không (= rỗng thông chẳng có yếu tính tự hữu).

Nhưng cái đó cũng chỉ là tên tạm đặt, được quy ước theo tập quán

Thưa đấng bảo hộ -- ngài chẳng chủ trương tánh không này là thực hữu.

[10]

Ngài cũng chẳng xác định không, hoặc bất không,

Ngài cũng chẳng tán thành – không và bất không, chẳng không và chẳng bất không.

Không tranh biện theo lối bất chấp đúng, sai về biểu ngữ này –

Đó là cách thức thông hiểu diệu ngữ của ngài.

[11]

Ngài đã tuyên bố, “Chẳng có các thực thể nào không là các dị biệt,

Cũng chẳng có bất kỳ các thực thể là các dị biệt; cũng chẳng có cả hai: dị biệt và không dị biệt”,  

Bởi vì trạng thái đồng nhất hoặc dị biệt được buông bỏ,

Xem xét theo bất kỳ cách nào, các thực thể đều chẳng tồn tại.

[12]

Nếu bộ ba của sinh trụ diệt đã tồn tại,

Các đặc tướng của các hiện tượng nhân duyên sẽ tồn tại,

Và chúng tất cả ba, tỉ dụ sinh trụ diệt,

Cũng sẽ là dị biệt.

[13]

Nếu nó có yếu tính tự hữu, mỗi một trong bộ ba, tỉ dụ sinh trụ diệt,

Chẳng có khả năng vận hành chức năng theo nhân duyên.

Cũng chẳng có hội hiệp

Của cái này cùng đến với cái kia.

[14]

Xét như thế, các thực thể cũng chẳng có đặc tướng, và cũng chẳng có yếu tính tự hữu,

Bởi vì chúng đều không được an lập theo cách có đặc tướng hoặc có yếu tính tự hữu,

Các hiện tượng hình thành bởi nhân duyên đều chẳng được an lập,

Thì nói chi đến các hiện tượng hình thành bởi phi nhân duyên được an lập.

[15]

Thưa đấng sư tử ngôn thuyết, giảng thuyết của ngài

Đúng là sư tử hống trục xuất

Thanh âm ngu muội ái luyến cái tự ngã của các con voi Vindhya

Vang qua cái vòi ống bễ của chúng.

[16]

Để được xứng đáng với phẩm đức của những kẻ đã khởi hành trên một đạo lộ

Không phụ thuộc vào các thứ nguy hại, hoặc đạo lộ tồi tệ của các tà kiến,

Mà chỉ phụ thuộc vào Ngài,

Chúng tôi không phụ thuộc vào hữu hoặc phi hữu.

[17]

Những kẻ lý hội thông hiểu đúng đắn

Những gì ngài đã giảng về trách nhiệm tương liên của các hệ quả

Chẳng cần thiết phải lý hội thông hiểu thêm một lần nữa

Những gì ngài đã giảng về trách nhiệm tương liên của các hệ quả.

[18]

Trong những kẻ lý hội thông hiểu

Tất cả các pháp đều đồng đẳng với niết bàn,

Làm thế nào có thể có bất kỳ chấp thủ vào “tôi”

Sinh khởi nơi một nhân sinh quan như thế?

[19]

Thông qua phẩm đức tôi kiến lập khi ca tụng ngài,

Đấng vô thượng của các Giác giả,

Đấng Giác giả về pháp tính,

Nguyện tất cả hữu tình trong thế giới đều trở thành các Vô thượng Giác giả.

-----------------------------------------------------------------------

Nagarjuna. Stutyatitastava. In Praise of The One Beyond Praise.

Translated by Karl Brunnholzl

(Source: In Praise of Dharmadhatu by Nagarjuna. Commentary by the third Karmapa. Translated and Introduced by Karl Brunnholzl. Snow Lion 2007—pp 315-317)

****

[1]

The Tathagata who has traveled

The unsurpassable path is beyond praise,

But with a mind full of respect and joy,

I will praise the one beyond praise.

[2]

Though you see entities being devoid

Of self, other, and both,

Your compassion does not turn away

From sentient beings – how marvelous!

[3]

Not arisen by any nature

And in the sphere beyond words –

The dharmas that you taught

Represent your being marvelous.

[4]

The skandhas, dhatus, and ayatanas

You have indeed proclaimed,

But any clinging to them too

You countered later on.

[5]

Not coming from conditions,

How could entities arise from conditions?

Through saying so, O wise one,

You cut through reference points.

[6]

Coming about due to a collection [of causes],

[Entities] originate from this collection as their causes –

That those who see it that way rely on the two extremes

Is what you see very clearly.

[7]

That entities [just] come about in dependence on conditions

Is what you have maintained indeed.

But it being a flaw that they are [truly] produced that way

You, O teacher, have seen like that.

[8]

Neither coming from anywhere,

Nor going anywhere,

All entities are similar to reflections –

This is what you held.

[9]

In order to relinquish all views,

O protector, you declared [entities] to be empty.

But that too is an imputation,

O protector – you did not hold that this is really so.

[10]

You assert neither empty nor nonempty,

Nor are you pleased with both.

There is no dispute about this –

It is the approach of your great speech.

[11]

“There are no entities that are not other,

Nor any that are other, nor both”, you said.

Since being one or other is abandoned,

No matter which way, entities do not exist.

[12]

If the triad of arising and so on existed,

The characteristics of conditioned phenomena would exist,

And all three of them, such as arising,

Would be different as well.

[13]

On its own, each one of the three, such as arising,

Is incapable of conditioned functioning.

Also, there is no meeting

Of one coming together with another.

[14]

Thus, neither characteristics nor their basis exist.

Since they are not established this way,

Conditioned phenomena are not established,

Let alone unconditioned phenomena being established.

[15]

O lion of speech, your speaking like that

Is just like a lion [‘s roar] dispelling

The self-infatuation of Vindhya - elephants

With their trumpeting.

[16]

Just as people embarked on a path

Do not rely on various harmful things

Or bad path of [wrong] views, through rely on you,

We rely on neither existence nor nonexistence.

[17]

Those who understand properly

What you said with implications

Need not understand again

What you said with implications.

[18]

In those who understand

All entities to be equal to nirvana,

How could any clinging to “me”

Arise at such a point.

[19]

Through my merit of praising you,

The supreme of knowers,

The knower of true reality,

May [all beings in] the world become supreme knowers.

------------------------------------------------------------------------

Ghi chú của bản Việt

Entities: các thực thể ; các pháp.

Conditions: các duyên

Conditioned phenomena: các hiện tượng nhân duyên; các hiện tượng hữu vi

Just: adj.

1.acting of being conformity with what is morally upright or equitable; honest and impartial.

2a. being what is merited; deserved. 2b legally correct.

3a. conforming to fact or reason; well-founded.3b.  conforming to a standard of correctness; proper.

Phụ Bản

Thánh Pháp Nhập Lăng già.
Phạn bản tân dịch Phước Nguyên

*

1. Phật bằng trí bi nhìn thế gian,
Nó như là hoa đốm hư không,
Không thể nói là sinh hay diệt,
Nên không thể nói hữu hay vô.

2. Phật bằng trí bi nhìn thế pháp,
Thực tế nó như vật huyễn ảo.
Do nó xa lìa nơi thức trí,
Nên không thể nói hữu hay vô.

3. Phật bằng trí bi nhìn thế gian
Nó giống như là một mộng cảnh,
Không thể nói nó đoạn hay thường,
Nên không thể nói hữu hay vô.

4. Pháp thân tự tính như mộng huyễn,
Ở đó có gì để khen ngợi?
Tán lễ tức không nắm lấy hữu,
Cũng không nắm lấy vô tự tính.

5. Pháp hiện tồn nhưng không thể thấy,
Do nó siêu việt thức và cảnh,
Mâu-ni siêu việt pháp trần cảnh,
Nơi đó có gì đáng khen chê?

6. Phật bằng trí bi lìa hình sắc,
Lại chứng nhân-pháp đều vô ngã ,
Do đây Phật thường hằng thanh tịnh,
Lìa phiền não chướng, sở tri chướng.

7. Phật không diệt ở trong Niết-bàn,
Cũng không trụ ở trong Niết-bàn,
Năng giác, sở giác thảy đều ly,
Cũng lại ly nơi hữu, phi hữu.

8. Nếu ai thấy Mâu-ni như vậy,
Tịch tĩnh, viễn ly nơi sinh tử.
Người đó đời này và đời sau,
Thanh tịnh phược thủ và vô cấu.

--------------------------------------------

Nguyệt Xứng

Giải thích “Sáu mươi kệ tụng biện luận lý tính duyên khởi” của Long Thọ (Kệ tụng 1 - 6)

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Bản dịch Anh: Nagarjuna’s Reason Sixty with Chandrakirti’s Commentary (Yuktisastikavrtti). Translated from Tibetan by Joseph Loizzo, and the AIBS Translation Team (2007).

*

Những người thường tục chủ trương yếu tính tự hữu thì cũng tương tự như những người thường tục xem các hình ảnh trong gương là thực hữu; họ không có khả năng nhận định rằng các sự vật trong thực tế chẳng có yếu tính tự hữu.

Nhưng, vì mục đích của giáo pháp giúp cho những trí giả cũng giống như những người đã chiêm nghiệm với các hình ảnh trong gương, có năng lực nhận định các sự vật / các tồn tại đều chẳng có yếu tính tự hữu “đều có năng lựchội thông hiểu điều này”, ngài Long Thọ nói:

  1. Những trí giả mà trí của họ vượt ngoài hữu và phi hữu, và chẳng trú ở khoảng giữa hữu và phi hữu, thấy được ý nghĩa của “duyên”: bất khả tư nghị, và tùy thuộc / không độc lập / không tự lập / không có yếu tính tự hữu / không khách quan / bị nhuốm màu cảm xúc.

-----------------------------------------------

Kinh Phổ Diệu. Lalitavistara

(Không thường hằng, không đoạn diệt)

Khi có một hạt giống, có một mầm nhưng hạt giống không là mầm. Nó không phải là một cái khác, tuy nó cũng không là cái đồng nhất. Và do thế không có thường hằng hoặc đoạn diệt.

When there is a seed, there is a sprout, but the seed is not the sprout. It is not something else, though it is not the same thing either. And so there is no permanence or ending.

(Lalitavistara. The Voice of the Buddha. The Beauty of Compassion - p. 264. Kinh Phổ Diệu)

**

Tất cả các pháp hữu vi hiện hữu đều thành lập từ các nguyên nhân và các duyên; các nguyên nhân tạo thành các duyên, các duyên tạo thành các nguyên nhân: chúng tương trợ lẫn nhau. Kẻ ngu không hiểu điều này.

"All composites exist proceeding from causes and conditions; causes make conditions, and conditions, causes: they support each other. The ignorant do not understand this."

(The Lalitavistara. The Voice of the Buddha. The Beauty of Compassion. Kinh Phổ Diệu. Vol 1, p. 263)

--------------------------------------

Nguyệt Xứng. Minh Cú Luận.

Candrakirti. Prasannapada. Lucid Expostion of the Middle Way.

Nếu có một hạt giống, có một mầm, tuy hạt giống không là mầm, cũng không là một cái khác hoàn toàn. Đây là lý do tại sao bản chất của các sự vật cũng không là đoạn diệt, cũng không là thường hằng.

It is said in the Lalitavistara: 'If there is a seed, there is a sprout, though the seed is not the sprout, nor is it wholly other. This is why the nature of things is neither perishable nor eternal. (p. 185)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2669)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6146)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3063)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3109)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3310)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3242)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3305)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4561)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2732)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5216)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3874)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3846)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3211)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4141)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5048)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3518)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6748)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3970)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3221)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3105)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2967)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5867)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4636)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3501)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2900)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3314)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4431)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5725)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6641)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3728)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4541)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4614)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3975)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3410)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4628)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6056)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5847)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3640)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4692)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4461)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4531)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4271)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4601)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8220)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3926)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5725)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5206)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6853)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6182)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5998)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5806)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6297)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6791)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4977)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5573)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6396)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3791)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5423)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10476)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6076)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant