Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Niệm, Vô Niệm, Thoại ĐầuHuệ Khả

10 Tháng Mười 202020:09(Xem: 6622)
Niệm, Vô Niệm, Thoại Đầu và Huệ Khả

Niệm, Vô Niệm, Thoại ĐầuHuệ Khả

Nguyên Giác

 

Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư. Bản thân người viết không phải là một thẩm quyền nào; do vậy, nơi đây chỉ là một cố gắng trong khả năng hạn hẹp để đọc lại và ghi chép lại một số lời dạy từ kinh luận, hy vọng sẽ giúp làm sáng tỏ một số thắc mắc. 

Các chữ viết tắt trong bài này có thể đọc ở Đại Tạng Kinh (1) với các kinh: DN là Trường Bộ Kinh, MN là Trung Bộ Kinh, SN là Tương Ưng Bộ Kinh, AN là Tăng Chi Bộ Kinh, Sn là Kinh Tập trong Tiểu Bộ, Ud là Kinh Phật Tự Thuyết, SA là Tạp A Hàm,

Có một chữ thường gặp trong kinh luận được dịch sang tiếng Việt là “hý luận” và cũng thường dịch là “tâm phan duyên” --- chữ này gốc tiếng Pali là “Papanca” với nghĩa đơn giản là “trải rộng ra” (to spread out), hiểu đơn giản là “suy nghĩ lan man, nghĩ ngợi lung tung.” Nghĩa là các niệm sinh khởi như khỉ vượn chuyền cành và cho chúng ta nhìn ra thế giới như một thế giới của mạng lưới các niệm chồng thêm lên thế giới của thấy nghe nhận biết, lúc đó thực tại được chúng ta nhìn được phóng chiếu qua lăng kính của mạng lưới niệm chập chùng, tức là chúng ta khái niệm hóa thế giới qua ngôn ngữ và khái niệm. Chữ “vô niệm” trong Thiền Tông có nghĩa là gỡ bỏ mạng lưới khái niệm phủ chụp lên thế giới, chứ không đơn giản là “không niệm” hay “ngưng niệm,” vì niệm cũng là một công cụ an tâmgiải thoát.

Lộ trình nào của tâm đã dẫn tới hý luận (papañca)? Theo nhà sư học giả Thanissaro Bhikkhu, Đức Phật giải thích trong ba bài kinh về diễn tiến dẫn tới hý luận, trích dịch như sau:

Ba đoạn trong các bài kinh --- DN 21, MN 18 và Sn 4.11 --- vẽ ra tiến trình duyên khởi gây ra hý luận và dẫn lối từ hý luận tới xung đột [trong tâm]. Vì các phân tích trong nhà Phật về duyên khởi thường khong phải đường thẳng, với nhiều chỗ để vòng quanh hồi đáp lại, các bản đồ dị biệt nhau trong các chi tiết của chúng. Trong Kinh DN 21, bản đồ như thế này:  

--- các tưởng & các loại hý luận > suy nghĩ > tham ái > ưa & ghét > ganh tỵ & kẹo kiệt > đối kháng & xung khắc.

Trong Kinh Sn 4:11, bản đồ không thẳng một đường và có thể vẽ lộ trình như sau:

--- tưởng > các loại hý luận;

--- tưởng > danh & sắc > xúc > hấp dẫn & kém hấp dẫn > tham ái > ưa & ghét > keo kiệt/chia rẽ (bất hòa)/tranh cãi/gây gỗ.

Trong Kinh MN 18, bản đồ này như sau:

--- Xúc > thọ > tưởng > suy nghĩ > các tưởng (khởi lên) & các loại hý luận.” (2)

Như thế, chúng ta thấy lộ trình dẫn tới hý luận bất định. Có khi hý luận tới ngay sau tưởng và dẫn tới niệm (suy nghĩ) và tham, như trong Kinh DN 21. Có khi ngay sau tưởng là một loạt hý luận, như Kinh trong Sn 4:11. Có khi từ tưởng dẫn tới niệm rồi lại tới tưởng và dẫn ra hý luận, như Kinh MN 18. Trong tất cả các trường hợp như thế, mạng lưới hý luận là cặp kính màu chúng ta mang để nhìn về thế giới

Khi chúng ta tu tập các pháp, thí dụ như Niệm Hơi Thở, Tứ Niệm Xứ, Lục Niệm, Niệm Phật, Niệm Thí, Niệm Thiên, vân vân… ban đầu khi hướng tâm để niệm, thì hý luận chưa khởi lên. Như thế, hý luận là một phản ứng khi chúng ta đối diện với thế giới, khi bắt đầu khởi tâm lựa chọn --- lúc đó dục tham khởi động ra tâm phân biệt, dẫn tới ưa & ghét, nắm giữ & đối kháng… Nghĩa là, trong sự chú tâm, hay sự hướng tâm về, lúc đó chưa hề vướng gì tới “ta, của ta” để mà phải chấp giữ lấy. Tức là, lúc mới chú tâm về bất kỳ một pháp nào, chưa hề có “sắc/thanh gì để trụ”… Khoảnh khắc ban đầu đó, còn là “tâm vô sở trụ”… Còn gọi là “sơ tâm” (tâm ban đầu, hay tâm hài nhi).

Bạn không thể nào “suy tưởng” với tâm ban đầu, vì lúc đó không có ký ức, không có kỷ niệm (thí dụ, khi tình cờ gặp lại kẻ thù cũ hay người tình cũ, thì kỷ niệm ghét/ưa sẽ gợi lên) --- và do vậy, khi suy tưởng luôn luôn là suy tưởng với những sắc/thanh/hương/vị/xúc/pháp của quá khứ, hoặc là suy tưởng mơ mộng về danh-sắc nào đó ở tương lai. Đức Phật dạy trong Kinh SN 22.64 rằng suy tưởng là rơi vào lưới Ác ma. Kinh này trích, bản dịch của Thầy Minh Châu:

“—Ai suy tưởng, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma.

—Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

—Như thế nào, này Tỷ-kheo, Ông hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời Ta nói một cách vắn tắt:

—Ai suy tưởng sắc, bạch Thế Tôn, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai suy tưởng thọ … tưởng … hành … thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.”

Bởi vì suy tưởng, tức là suy niệm, là ngẫm nghĩ, là đo lường, là cân nhắc, là đánh giá, là lựa chọn, là tự thấy có cái mình ưa hay ghét, và do đó là hý luận. Trong bản dịch tiếng Anh, có hai cách dịch. Bhikkhu Bodhi dịch: “Bhikkhu, in conceiving one is bound by Mara; by not conceiving one is freed from the Evil One.” Và Bhikkhu Sujato dịch: “When you identify, mendicant, you’re bound by Māra. Not identifying, you’re free from the Wicked One.” Cả hai chữ đều có nghĩa là “suy tưởng” tức là “nhận ra có cái tôi trong sắc/thanh…” 

Tiếng Việt gọi đơn giản “không suy tưởng” là “vô niệm.” Khái niệm này có thể dẫn ra trong kinh, nói là chớ để bị dính mắc vào quá khứ, vị lai hay hiện tại, hiểu là chớ để bị lôi kéo hay xô đẩy vì ký ức trong quá khứ, chớ mơ tưởng về một vị lai chưa tới và cũng chớ bị dính vào hiện tại (trong các lựa chọn sắc thanh hương vị xúc pháp mà chúng ta đang kinh nghiệm). Chỗ này dễ hiểu, thí dụ như trong mùa bầu cử Hoa Kỳ, chúng ta có thể nổi giận hay ưa thích quá khứ của một ứng cử viên nào đó, hay chúng ta có thể lo ngại hay vui mừng về viễn ảnh tương lai nếu một ứng cử viên nào đó sẽ thắng cử, và hiện tại mắt và tai chúng ta có thể bị màn hình các đài TV kích thích vui buồn sôi nổi. Hiển nhiên, nếu thấu lý nhân quả, lòng chúng ta sẽ dịu hẳn đi.

Tương tự, trong Kinh SN 12.38, Đức Phật sử dụng nhiều chữ tương đương để giải thích về “không suy tưởng” --- và lần này nói về một “thức không an trú” và do vậy thức này sẽ “không tăng trưởng” và là giải thoát. Bản dịch của Thầy Minh Châu viết:

Này các Tỷ-kheo, nếu chúng ta không có tư niệm, không có tư lường, không có thầm ý, thời không có sở duyên cho thức an trú. Khi nào sở duyên không có mặt thời thức không an trú. Do thức ấy không an trú và không tăng trưởng, nên trong tương lai tái hữu không sanh khởi. Do sanh khởi tái hữu không có mặt trong tương lai, nên sanh, già chết, sầu, bi, ưu, não được đoạn diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.”  

Bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi dịch là: "...bhikkhus, when one does not intend, and one does not plan, and one does not have a tendency towards anything, no basis exists for the maintenance of consciousness..." 

Bhikkhu Sujato dịch là: "If you don’t intend or plan or have underlying tendencies, this doesn’t become a support for the continuation of consciousness. With no support, consciousness is not established. When consciousness is not established and doesn’t grow, there’s no rebirth..."

Như vậy, chữ “không có tư niệm” chỉ có nghĩa là “ngay nơi niệm sẽ không để thức an trú” vào đâu cả. Tức là, không ý định mưu tính, không lên kế hoạch, không xuôi theo khuynh hướng thầm kín nào. Đó là giải thoát

Trong Tạp A Hàm, có ba Kinh SA 359, 360, 361 đều có đoạn sau, theo bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ & Đức Thắng:

Nếu không suy lường, không vọng tưởng thì sẽ không bị sai sử khiến thức duyên níu mà tồn tại. Vì không có chỗ duyên níu cho thức tồn tại nên nó không nhập vào danh sắc. Vì không nhập vào danh sắc nên không qua lại. Vì không qua lại nên không sanh tử. Vì không sanh tử nên sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não ở đời vị lai đều bị diệt và thuần một khối khổ lớn như vậy cũng bị diệt.”

Ngài Trần Nhân Tông còn gọi đó là “đối cảnh vô tâm” --- và đó là một tông chỉ của Thiền Trúc Lâm.

Tương tự, thấy nghe hay biết sẽ chỉ là thấy nghe hay biết, là hoàn toàn không rơi vào hý luận. Trong Kinh Bahiya (tức là Kinh Ud 1.10), Đức Phật dạy cụ thể về cách xa lìa suy tưởng khi thấy nghe hay biết, bản dịch của Thầy Minh Châu:

"...này Bàhiya, nếu với Ông, trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiva, ông không là chỗ ấy. Vì rằng, này Bàhiya, Ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau."

Hành, tức là lựa chọn. Kinh SN 12.51 ghi rằng khi tâm lựa chọn thiện, thức sẽ vào cảnh giới thiện; khi lựa chọn ác, thức sẽ vào cảnh giới ác; khi lựa chọn bất động, thức sẽ vào cảnh giới bất động. Nhưng khi trí tuệ đã khai phát, người tu sẽ không lựa chọn thiện, ác hay bất động. Và do vậy, không nắm giữ gì. Như thế là giải thoát.

Bản Anh văn Kinh SN 12.51 của Bhikkhu Sujato trích: “If an ignorant individual makes a good choice, their consciousness enters a good realm. If they make a bad choice, their consciousness enters a bad realm. If they make an imperturbable choice, their consciousness enters an imperturbable realm. When a mendicant has given up ignorance and given rise to knowledge, they don’t make a good choice, a bad choice, or an imperturbable choice. Not choosing or intending, they don’t grasp at anything in the world. Not grasping, they’re not anxious. Not being anxious, they personally become extinguished.”

Bản dịch của Thầy Minh Châu, trích: “Này các Tỷ-kheo, nếu người nào bị vô minh chi phối, dự tính làm phước hành, thức (của người ấy) đi đến phước. Nếu người ấy dự tính làm phi phước hành, thức (của người ấy) đi đến phi phước. Nếu người ấy dự tính làm bất động hành, thức (của người ấy) đi đến bất động. Này các Tỷ-kheo, khi nào vị Tỷ-kheo đoạn tận vô minh, minh được sanh khởi. Vị ấy do vô minh đoạn tận, minh sanh khởi, không dự tính làm phước hành, không dự tính làm phi phước hành, không dự tính làm bất động hành. Không có dự tính, không có dụng ý, vị ấy không chấp thủ một sự gì ở đời. Không chấp thủ, vị ấy không sợ hãi. Không sợ hãi, vị ấy hoàn toàn tịch tịnh."

.

Tới đây, chúng ta có thể thắc mắc, khi gặp một số kinh, trong đó Đức Phật dạy rằng chỉ tu một pháp thôi, là đủ để giải thoát. Thí dụ, Niệm Thiên, tức là niệm chư Thiên. Tại sao niệm tới các vị thiên, trong đó hầu hết là những chúng sinh còn tham sân si, lại có thể giải thoát, lại có thể chứng nhập Niết Bàn?

Điển hình như Kinh AN 1.296-305, bản dịch của Thầy Minh Châu, trích:

Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Phật. Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đế nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Pháp... niệm Tăng... niệm Giới... niệm Thí... niệm Thiên... niệm Hơi thở vô, Hơi thở ra... niệm Chết... niệm Thân... niệm An tịnh. Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

Tương tự, trong Tạp A Hàm có Kinh SA 550, bản dịch của hai thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng, cũng nói về một pháp và một pháp đó là niệm chư Thiên, trích:

“…khi Thánh đệ tử niệm công đức chư Thiên, không khởi giác tưởng tham dục, sân nhuế, não hại, thì như vậy, Thánh đệ tử ra khỏi tâm nhiễm trước. Tâm nhiễm trước là gì? Đó là năm phẩm chất của dục. Nếu đối với năm phẩm chất của dục này mà lìa tham, nhuế, si và an trụ chánh niệm, chánh trí, nương theo trực đạo, tu tập niệm Phật, chân chánh hướng thẳng đến Niết-bàn. Đó gọi là Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, là bậc Tri giả, Kiến giả, nói nhất thừa đạo thứ năm ra khỏi khổ, đạt đến chỗ thù thắng, khiến chúng sanh được thanh tịnh, lìa khỏi mọi khổ não, diệt hết mọi lo buồn, được pháp như thật.”

Như thế, chúng ta có thể hiểu rằng, không phải là cái được niệm (nơi đây là chư Thiên), mà chính là ở hành vi niệm với tâm lìa tham sân si (tâm ra khỏi nhiễm trước). Bởi vì chư Thiên là các chúng sinh còn tham sân si, nhưng ngay khi chú tâm vào hành vi niệm, tức là chú tâm vào cái đang tương tác với thế giới (dù là ngoại xứ và nội xứ), thì sự chú tâm đó, tức hành vi niệm đó đã siêu vượt tham sân si. Bởi vì cái được niệm là vô lượng vô biên (chư Thiên các cõi trời) nhưng khi chú tâm vào hành vi niệm là đã siêu vượt ba cõi vì chỉ còn cái đương niệm hiện tiền (một cái trừu tượng, bất khả nghe thấy, vì chúng ta không thể thấy nghe vô lượng chư Thiên). Có lẽ sẽ rất nhiều người dễ dàng kinh nghiệmchú tâm tỉnh giác đương niệm cũng là đang vượt qua ba thời quá hiện vị lai. Vì trong cái chú tâm đương niệm hoàn toàn không có cái được niệm (thí dụ, hình ảnh chư Thiên nào) và cũng không có ai đang niệm.

Chỉ như thế, chúng ta mới hiểu được tại sao nhiều vị Thiền sư dạy học trò tham thoại đầu, hay tham công án, trong đó phần lớn dẫn tới chỗ ra ngoài lý luận, nơi tâm không thể suy tưởng, nơi tiếp cận chỗ có thể gọi là “niệm vô niệm” hay “niệm vô tâm” và cũng có thể gọi là tư lường cái không thể tư lường. Thí dụ, như thoại đầu, "Khi chưa có trời đất, ta là cái gì?" Câu trả lời Đức Phật cho sẵn là “vô ngã” rồi, nhưng ngay cái “đương niệm cái rất là trừu tượng, cái chưa từng hình dung nổi” chính là khi kinh nghiệm cái vô ngã, nơi đó có kinh nghiệm vô ngã nhưng không hề có ai kinh nghiệm. Tương tự, như với thoại đầu, "Trước khi cha mẹ chưa sanh, mặt mũi bổn lai của ta ra sao?"

Chính cái “chú tâm đương niệm” đó là Phật tánh, hay Tự tánh, do vậy mới nói rằng bổn lai chúng sinh đã là Phật. Và do vậy, cũng nói rằng phiền não tức Bồ Đề, và ngược lại, tất cả đều không lìa cái đương niệm đó, bất kể là niệm chư Thiên, những chúng sanh còn tham sân si. Chính ngay nơi đương niệm đó, hễ tỉnh tức thân là Phật, hễ mê tức thânchúng sanh. Chính vì cái “đương niệm” có sẵn hai bờ tỉnh/mê như thế, thoại đầu hay công án chỉ giữ chức năng như cây gậy dò đường. Chính nơi đương niệm, Chân Đế không lìa Tục Đế, tức là nước không lìa sóng, vàng không lìa nhẫn, và gương không lìa ảnh. Thiền Tông nói rằng, thấy bản tánh nơi đương niệm như thế, tức là đốn ngộ trước (mức độ thâm sâu còn tùy), để rồi sẽ tiệm tu sau, vì cần nhiều thời gian để gỡ bỏ tập khí tham sân si.

Có thể dẫn lời ngài Huệ Năng nói trong Kinh Pháp Bảo Đàn, nơi Phẩm Bát Nhã, bản dịch của Thầy Duy Lực, rằng, "Bản tánh là Phật, lià tánh chẳng có Phật... Sao gọi Ba La Mật? Ba La Mật là tiếng Ấn Độ, dịch là đến bờ bên kia, nghiã là lià sanh diệt. Chấp cảnh thì sanh diệt dấy lên như nước nổi làn sóng, tức gọi bờ bên này, lìa cảnh thì chẳng sanh diệt như nước chảy im lìm, tức là bờ bên kia, nên gọi Ba La Mật... Thiện tri thức, phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ Đề; niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh tức phiền não, niệm sau lià cảnh tức Bồ Đề." (3)

Tới đây, chúng ta có thể kể lại một truyền thuyết nổi tiếng, ghi trong nhiều sách về ngài Bồ Đề Đạt Ma. Nơi đây, sẽ ghi theo Wikipedia. Sau một thời gian truyền dạy Thiền Tông ở Trung Hoa, ngài Bồ Đề Đạt Maý định hồi hương, mới gọi đệ tử trình bày sở đắc: "Giờ ta ra đi sắp tới, vậy mỗi đệ tử hãy nói cho ta nghe sở đắc của mình".

Đạo Phó bạch: "Theo chỗ thấy của tôi, muốn thấy đạo phải chẳng chấp văn tự, mà cũng chẳng lìa văn tự."

Bồ Đề Đạt Ma đáp: "Ông được lớp da của tôi rồi."

Ni Tổng Trì nói: "Chỗ giải của tôi như cái mừng vui thấy nước Phật (tâm) bất động, thấy được một lần, sau không thấy lại nữa."

Bồ Đề Đạt Ma nói: "Bà được phần thịt của tôi rồi."

Đạo Dục, một đệ tử khác, bạch: "Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải thật có, vậy chỗ thấy của tôi là không một pháp nào khả được."

Bồ Đề Đạt Ma đáp: "Ông được bộ xương của tôi rồi."

Cuối cùng, đến phiên Huệ Khả. Huệ Khả lễ bái sư rồi đứng ngay một chỗ, không bạch không nói gì cả. sư bảo: "Ngươi đã được phần tuỷ của ta."

Trong trình độ tu học hạn hẹp, người viết xin lạm bàn như sau. Như thế, giải thoát có nhiều mức độ thâm sâu. Văn tự có thể hiểu là chữ nghĩa, lời nói, kể cả lời Đức Phật dạy, cũng là một bức màn sương khói của ý thức. Lời ngài Đạo Phó nói không chấp, không lìa văn tự có thể hiểu là không vin vào và cũng không lìa bức màn sương khói của ý thức. Lời Thiền sư Ni Tổng Trì nói thấy nước Phật bất động, tức là thấy cái [đương niệm] bất động trong vô số cái thấy nghe hay biết; không thấy lại nữa bởi vì toàn thân và tất cả những gì thấy nghe hay biết không còn lìa cái bất động này, nhưng vẫn bất toàn vì còn thấy có động với tịnh. Lời ngài Đạo Dục nói rằng thấy thân tâm ngài đều rỗng rang, đều là không, đều không thực có, và tất cả đều bất khả đắc (Đức Phật từng dạy rằng y như tiếng đàn vốn là rỗng không, không thể nắm bắt vì từ duyên khởi mà tới và đi). Nhưng tới ngài Huệ Khả, chỉ tịch lặng không lời.

Chúng ta suy nghĩ thế nào về cách trả lời bằng sự tịch lặng? Nơi đây, hiển nhiên là tịch lặng của người hiểu đạo và đã theo học ngài Bồ Đề Đạt Ma nhiều năm, không phải sự im lặng của người không biết gì. Có phải đây cũng là sự tịch lặng khi Đức Phật cầm bông hoa lên, và ngài Ca Diếp lặng lẽ mỉm cười, theo truyền thuyết của Thiền Tông? Nơi đây [xin sám hối để] mượn lời giải thích theo Đại Thừa rằng ba ngài Đạo Phó, Tổng Trì, Đạo Dục vẫn còn trong vòng nhìn thấy “ngã không” (nhơn không) và chưa thấy “pháp không,” trong khi ngài Huệ Khả nhìn ngay từ đương niệm là cả ngã khôngpháp không. Dựa vào Pháp duyên khởi, sẽ thấy “ngã không” và còn trong vòng đối trị; nhưng khi thấy ngay cả Pháp duyên khởi cũng vốn tịch lặng, thì sẽ thấu được “pháp không” và thấy không có gì để làm, vì không có gì tham sân si nào để đối trị, và không thấy có pháp nào [kể cả Tứ Diệu Đế] để tu học hay truyền dạy, lúc đó là tịch lặng. Trong bốn vị học trò của ngài Bồ Đề Đạt Ma, chỉ duy ngài Huệ Khả là nhìn thấu suốt Vô Tác Tứ Đế

Có thể dẫn lời Thầy Thích Thiện Siêu trong bài "Bốn Loại Tứ Đế Trong Kinh" đã giải thích về Vô Tác Tứ Đế, trích:

"Thường thường chúng ta cắt nghĩaduyên sinh là vật nọ vật kia, pháp nọ pháp kia, ít khi áp lý duyên sinh vào Khổ Tập Đạo trừ Diệtvô vi, không nói. Bây giờ áp lại lý duyên sinh vào nơi Khổ Tập Đạo, như vậy các pháp khác là duyên sinh vô tự tính, thì Khổ Tập Đạo đế cũng là duyên sinh nên vô tự tính. Vô tự tínhvô sinh - nên gọi là Vô sinh Tứ đế. Cũng đều là Tứ đế nhưng giáo lý mỗi tầng bậc có khác nhau, có sâu cạn như vậy. Rồi đến Viên giáo nói Vô tác Tứ đế, vô sinh thì có tác gì, đã vô sinh thì vô tác. Vô sinh thì Tập đế, Đạo đế không tác, nó đi dần tới, đưa tới pháp tính bổn vô sinh diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Như vậy nó là vô tác (vì không sanh không diệt), bất cấu bất tịnh thì đâu có Khổ có Tập. Bất tăng bất giảm dứng vào trong tự tính thực tính các pháp vốn bình đẳng, vốn là yên lặng, vốn là vô sinh, vốn là như tính Niết-bàn, là bất sanh bất diệt, bất tăng bất giảm, bất cấu bất tịnh, rồi đến Vô tác Tứ đế." (4)

Khi thấy cái đương niệm là vô sanh Niết Bàn, đó là tịch lặng. Bậc thánh chứng ngộ “ngã không” sẽ nhìn thấy có Niết bàn để vào. Nhưng bậc thánh chứng ngộ cả “ngã không” và “pháp không” sẽ thấy ngay cả không Niết bàn Phật và không cả Phật Niết Bàn. Đó là chỗ Kinh Lăng Già, một kinh được ngài Bồ Đề Đạt Ma đưa vào làm tông chỉ cho Thiền Tông, nói rằng ngay cả Niết Bàn cũng chỉ là giấc mộng đêm qua, như lời ngài Đại Huệ Bồ Tát quỳ gối thưa với Đức Phật, qua bản dịch của Thầy Duy Lực, trích (bài kệ nơi đây sẽ viết theo văn xuôi do dễ đọc):

 "Thế gian lìa sanh diệt / Như hoa đốm trên không. / Trí chẳng trụ hữu, vô / Mà khởi tâm đại bi. / Tất cả pháp như huyễn / Xa lìa nơi tâm thức. / Trí chẳng trụ hữu, vô / Mà khởi tâm đại bi./ Xa lìa chấp đoạn thường / Pháp thế gian như mộng. / Trí chẳng trụ hữu, vô / Mà khởi tâm đại bi./ Biết nhơn pháp Vô ngã / Phiền nãonhĩ diệm / Thường trong sạch vô tướng / Mà khởi tâm đại bi./ Niết bàn chẳng thể lập / Chẳng có Niết Bàn Phật / Chẳng có Phật Niết Bàn / Lìa năng giác, sở giác. / Hoặc có hoặc không có / Cả hai thảy đều lìa. / Pháp thiền quán tịch tịnh / Vốn lìa sự sanh khởi. / Chẳng đời này đời sau / Gọi là chẳng thủ xả." (5)

Sự tịch lặng của ngài Huệ Khả là một cách trả lời bằng cách hiện thân như thực tướng, nơi đó là núi cao ngàn trượng không lời nào để bấu víu nữa, cũng hệt như khi Đức Phật im lặng đưa cành hoa lên và ngài Ca Diếp mỉm cười. Ngài Long Thọ gọi đó là Trung Luận, là Đệ nhất nghĩa đế. Trong tác phẩm Trung Luận (Madhyamaka Sastra) của ngài Long Thọ, bản dịch của Thầy Thiện Siêu, phẩm XVIII Quán Về Pháp, trích như sau: 

"6. Chư Phật hoặc dạy về ngã, hoặc dạy về vô ngã, trong thật tướng các pháp, không có ngã, không có phi ngã.

7. Thật tướng của các pháp thì tuyệt dứt đường ngôn ngữtâm duyên, không sinh cũng không diệt, tịch diệt như Niết-bàn.

8. Hết thảy pháp đều thật, đều phi thật, cũng thật cũng phi thật, chẳng phải thật chẳng phải phi thật. Đó chính là giáo pháp của chư Phật.

9. Tự mình chứng biết, không theo cái biết của người khác, tịch diệt không có hý luận, không sai khác không phân biệt. Đó chính là thật tướng." (6)

Thực ra, các tư tưởng Trung Luận, Tánh Không, Phật Tánh của ngài Long Thọ và các luận sư Đại Thừa cũng bắt nguồn từ lời Đức Phật dạy. 

Trong nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời, Đức Phật dạy trong Kinh Sn 5.6 (Upasiva-manava-puccha / Các Câu Hỏi của Upasiva), bản dịch của Nguyên Giác, đúng là ngôn phong Thiền Tông, dạy rằng hãy tỉnh thức nhìn về không một pháp nào, rằng chớ nương tựa một pháp nào, nơi đó các pháp và ngôn ngữ cũng sẽ tịch lặng, trích như sau:

"1070. [Đức Phật] Hỡi Upasiva, hãy tỉnh thức, nhìn về không một pháp nào, nương tựa “không một pháp nào” mà vượt qua dòng nước lũ. Rời dục lạc, bỏ nói năng, ngày đêm liên tục nhìn cho cạn kiệt tham ái...

1076. [Đức Phật] Hỡi Upasiva. Không thể đo lường nào đối với người đã tới nơi an nghỉ giải thoát, không có gì người ta có thể mô tả về người đó, nơi tất cả các pháp đều hoàn toàn được gỡ bỏ, nơi tất cả mọi đường ngôn ngữ cũng hoàn toàn được gỡ bỏ." (7)

Tương tự, trong Tạp A Hàm, Kinh SA 335, Đức Phật dạy rằng thực tướng các pháp không hề có gì đến hay đi, cũng không hề có gì sinh hay diệt (ngài Long Thọ trong Trung Luận, Phẩm 2 Quán về Đi Lại, cũng nói rằng không hề có cái gì gọi là tướng đi và lại, không hề có cái gì gọi là tướng sinh diệt), và Đức Phật gọi đây là kinh Đệ nhất nghĩa không. Bản dịch Kinh SA 335 của hai thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng trích như sau:

Thế nào là kinh Đệ nhất nghĩa không? Này các Tỳ-kheo, khi mắt sanh thì nó không có chỗ đến; lúc diệt thì nó không có chỗ đi. Như vậy mắt chẳng thật sanh, sanh rồi diệt mất; có nghiệp báo mà không tác giả. Ấm này diệt rồi, ấm khác tương tục, trừ pháp tục số. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng nói như vậy, trừ pháp tục số. Pháp tục số, tức là nói, cái này có thì cái kia có, cái này khởi thì cái kia khởi, như vô minh duyên hành, hành duyên thức, nói chi tiết đầy đủ cho đến thuần một khối khổ lớn tập khởi. Lại nữa, cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia diệt, vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt. Như vậy, nói rộng cho đến thuần một khối khổ lớn tụ diệt. Này các Tỳ-kheo, đó gọi là kinh Đệ nhất nghĩa không.”

Tương tự, trong Kinh Sn 1.1 với 17 bài kệ, Đức Phật dạy pháp như huyễn, rằng các pháp không thật cũng không hư, lập đi lập lại câu “tất cả thế giới này là không thật” tới 5 lần trong 5 bài kệ mang số từ 9 tới 13. Điểm đặc biệt, để nhấn mạnh tính Như huyễn của các pháp, Đức Phật lập lại 17 lần nhóm chữ “rời bỏ được cả bờ này và bờ kia” trong 17 bài kệ đó. Đó là diệu lý Pháp Không của Bắc Tông, chứ không chỉ ngừng ở lý Ngã Không của một số vị sư thời bộ phái.

Chúng ta có thể kinh nghiệm một phần nào cái bất sinh bất diệt trong tất cả những cái sinh diệt chảy xiết hay không? Có thể thế này: khi bạn đang đứng nơi một góc rừng và chợt thấy mưa lớn ào tới, gió thổi nghiêng cây lá, hơi lạnh theo nước mưa hắt vào mặt và ngấm vào toàn thân, có thể lúc đó bạn sẽ chợt thấy tâm mình qua thấy nghe hay biết thực sự kinh nghiệm được cái không hề có gì gọi là sinh diệt, thời gian như dường ngưng đọng và tâm vắng bặt, kể cả tham sân si, kể cả các tâm thiện và bất thiện đều vắng bặt.

Và cũng có thể thí dụ thế này: bạn lấy tờ giấy lớn và một cây bút chì ra, vẽ hình một cái bình (tức là, bạn thấy Có bình, qua nét bút chì) và rồi bạn lấy gôm tẩy xóa nét bút chì (tức là, bạn thấy Không bình, qua lằn nét vừa tẩy xóa) nhưng khi nhìn tờ giấy bao trùm cả Có và Không đó, bạn sẽ thấy rằng bản lai vốn tịch lặng, rằng bản lai vốn xa lìa cả Có và Không, nơi đó không hề có gì sinh hay diệt. Tức là, bản lai vốn là Phật, chứ không hề có Phật nào được thành, vì nước chẳng khác băng, vì phiền não với Bồ Đề chẳng hề xa lìa nhau chút nào.

Như thế, chúng ta đã khảo sát về niệm, về vô niệm, về đương niệm, về thoại đầu, và kết luận rằng khi nhìn các pháp trong Đệ nhất nghĩa đế, sẽ thấy sinh tử với Niết Bàn hệt như hoa đốm hư không. Có lẽ, đó cũng là sự tịch lặng của ngài Huệ Khả

GHI CHÚ:

(1) Đại Tạng Kinh Tiếng Việt - Nam Truyền và Bắc Truyền: https://thuvienhoasen.org/a31409/dai-tang-kinh-tieng-viet-nam-truyen-va-bac-truyen

(2) Thanissaro Bhikkhu: https://www.dhammatalks.org/suttas/MN/MN18.html

(3) Kinh Pháp Bảo Đàn: https://thuvienhoasen.org/a682/pham-bat-nha-thu-hai

(4) Bốn Loại Tứ Đế: http://www.diendan.daitangkinhvietnam.org/viewtopic.php?f=35&t=6150

(5) Kinh Lăng Già: https://thuvienhoasen.org/p16a995/quyen-thu-nhat

(6) Trung Luận: https://thuvienhoasen.org/p19a15713/pham-18-quan-ve-phap

(7) Kinh Nhật Tụng Sơ Thời: https://thuvienhoasen.org/p15a30617/sn-5-6-upasiva-manava-puccha-cac-cau-hoi-cua-upasiva

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6120)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3028)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3090)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3290)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3223)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3287)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4538)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2714)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5191)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3829)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3820)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3193)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4115)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5030)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3505)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6726)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3948)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3213)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3087)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2951)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5834)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4609)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3475)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2886)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3301)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4409)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5703)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6610)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3684)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4516)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4590)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3950)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3378)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4597)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6019)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5810)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3614)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4669)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4444)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4513)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4253)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4578)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8176)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3903)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5706)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5178)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6797)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6154)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5974)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5786)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6264)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6769)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4951)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5547)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6369)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3772)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5387)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10441)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6055)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9300)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant