Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Dẫn Vào Kinh Pháp Hoa

24 Tháng Mười 202015:28(Xem: 3787)
Dẫn Vào Kinh Pháp Hoa
Dẫn Vào Kinh Pháp Hoa

Khải Thiên 

hoa sen 1

Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh. Hy vọng điều này sẽ ít nhiều giúp cho người đọc tiếp thu giáo nghĩa một cách chính xác. Dĩ nhiên, mỗi người, mỗi hành giả có một trình độ tâm chứng nhất định khác nhau. Mỗi hành giả, do đó, hiểu kinh theo cấp độ tuệ giáccảm xúc tâm linh của riêng mình. Thật vậy, chúng ta đến với kinh bằng những cách tiếp cận khác nhau, những hiểu biết khác nhau, cùng với những diễn dịch khác nhau .v.v. Nhưng vượt lên trên tất cả, chúng ta cũng nên lưu ý rằng, chân lý chỉ có một mà thôi. Chân lý, do vậy, không thể đúng với người này mà khác với người kia, hay đúng chỗ này mà sai ở chỗ kia. Người thọ trì Pháp Hoa nghiêm túc phải dùng nhiều phương tiện để đạt đến một chân lý, nht tha. Những gợi ý dưới đây dành cho những bạn đồng hành cùng thọ học kinh Pháp Hoa.

Cu trúc ba bthuc Kinh Pháp Hoa (Pháp Hoa Tam BKinh): Bộ kinh Pháp Hoa hiện tại chúng ta đang thọ trì là bản dịch trực tiếp từ chữ Phạn (sanskrit) sang chữ Hán của Ngài Cưu-ma-la­thập; đối với người đọc tiếng Việt, tiếp theo nguyên bản này có bản dịch từ chữ Hán sang chữ Việt của Hoà Thượng Thích Trí Tịnh. Đây là bản kinh chính có hai mươi tám chương. Tuy nhiên, trong bộ kinh này có hai chi tiết cần lưu ý. Trong chương một (Phẩm Tựa) phần mở đầu, kinh có nói rằng Đức Phật trước hết giảng kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa, sau đó Ngài nhập vào Chánh định Vô Lượng NghĩaXứ. Và sau khi an lành dậy khỏi định, Ngài bắt đầu giảng kinh Pháp Hoa. Thứ đến, trong chương thứ hai mươi tám (Phẩm Phồ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát) kinh khuyến khích hành giả Pháp Hoa tu tập gia hạnh nương theo Bồ tát Phổ Hiền. Ởđó xác định bốn điều kiện để có được kinh Pháp Hoa (Được chư Phật hộ niệm, trồng các cội công đức, vào trong chánh định, và phát tâm cứu độ chúng sinh). Vì vậy, kinh Quán PhHin BTát Hành Pháp, một tập kinh ngắn, được gắn kết vào cu trúc Pháp Hoa tam bkinh. Tập kinh này được xem là những chỉ dẫn quan trọng về cách sám hối tội chướng của hành giả, làm cho thân tâm trở nên thanh tịnh. Từđây có cấu trúc ba bộ kinh thuộc Pháp Hoa (Pháp Hoa Tam Bộ Kinh), bao gồm ba phần: Phn khai kinh (Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa, có ba chương), phn chính (Kinh Pháp Hoa, có hai mươi tám chương), và phn Pháp hành (Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp, có một chương). Chúng ta sẽ lần lượt đi vào nội dung cụ thể của ba bộ kinh Pháp Hoa ở phần sau.

Các Phân Hi ca Kinh Pháp Hoa: Các bài thuyết pháp của Đức Phật trong Kinh Pháp Hoa hai mươi tám chương được trình bày qua hình thức kể chuyện, những vở kịch dài, có nối kết ba đời quá khứ, hiện tại, và vị lai. Nội dung thường mang tính chất huyền bí vì bối cảnh câu chuyện đôi khi diễn ra ở các cõi trời hay liên hệ đến Long cung sâu thẳm ở tận đáy đại dương. Tuy nhiên, hầu hết các câu chuyện được diễn ra trên hai bối cảnh chính đó là trên đỉnh núi Linh Thứu (Linh sơn hội) hoặc trên không trung (Hư không hội) của đỉnh núi Linh Thứu. Các pháp thoại này lại được chia thành ba hội khác nhau (nhị xứ tam hội) đó là trước pháp hội Linh sơn (tiền Linh sơn hội), pháp hội trên không trung (Hư không hội), và sau pháp hội Linh sơn (hậu Linh sơn hội).

Pháp hội tiền Linh sơn diễn ra tại núi Linh Thứu, bao gồm mười chương, từ chương một (Phẩm Tựa) đến chương mười (Phẩm Pháp Sư). Trong các pháp hội này, người thuyết giảng là Đức Thích Ca Mâu Ni Phật; giáo pháp được thuyết giảngTht tướng ca các Pháp. Đối tượng nghe phápchúng sinh đương đại thời Phật tại thế.

Pháp hội không trung, thuyết giảng trên hư không, bao gồm mười hai chương, từ chương mười một (Phẩm Hiện Bảo Tháp) đến chương hai mươi hai (phẩm Chúc Lụy). Trong pháp hội không trung, người thuyết Pháp là Đức Thích Ca Mâu Ni, có Đức Phật Đa Bảo và các phân thân của chư Phật cùng tham dự. Nội dung giáo pháp bao gồm nói về Đức Phật cửu viễn thật thành, các phương tiện khai cận hiển viễn, Như Lai thường tại, và thế giới bổn lai thường tịch (ta bà tức tịch quang). Đối tượng giáo hoá là chúng sinh đời sau, sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni diệt độ.

Pháp hội hậu Linh sơn giảng tại núi Linh Thứu, bao gồm bảy chương, từ chương hai mươi ba (Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự) đến hai mươi tám (Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát). Người thuyết giảng là chư Bồ Tát, giáo pháp được giảng nói về sự tán dương công đức của người thọ trì kinh và thệ nguyện hộ trì của chư Bồ tát. Đối tượng giáo hoá là chúng sinh đời sau, sau Phật diệt độ.

Biu đồ Pháp hi b1

Các Phân Đon ca Pháp Hoa: Theo tông Thiên Thai, kinh Pháp Hoa hai mươi tám chương được phân đoạn theo hình thức hai môn và sáu đoạn (nhmôn lc đon) bao gồm Tích môn và Bổn môn. Mỗi môn có ba phần: phần giới thiệu (tphn), phần chính (chính tông phn), và phần kết (lưu thông phn). Đối với Tích môn, chương một là phần giới thiệu, chương hai đến chương mười là phần chính tông, chương mười một đến chương mười bốn là phần kết. Đối với Bổn môn, chương mười lăm (Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất) là phần giới thiệu, Phẩm mười sáu (Như Lai Thọ Lượng) là phần chính tông, chương mười bảy đến hai mươi tám là phần kết.

 

Biu đồ Phân đon

b2

Hai Môn ca Pháp Hoa: Môn ở đây không phải là sự phân biệt riêng lẻ từng nơi chốn hay từng góc độ độc lập. Danh từ Tích môn Bn môn chỉ đến hai cách nhìn về sự hiện hữu của Đức Phật. Tích môn chỉ cho các hoạt động thực tế của Đức Phật như quá trình Ngài tu học, thuyết pháp, và giáo hoá chúng sinh. Tích môn có thể được nhận thức qua các sự kiện đản sinh, thành đạo, chuyển Pháp luân, và nhập niết bàn. Các hành trạng đó có dấu tích, có thể thấy biết được trong nhận thức chung của con người theo dòng lịch sử của Đức Phật. Tích môn như thế là sự thị hiện mang tính chất lịch sử hiện thực của một vị Phật, có đản sinh và có diệt độ. Ngược lại, Bổn môn chỉ đến những cái không thể thấy dấu tích, không biểu hiện ra ngoài, không giới hạn trong không gianthời gian thị hiện của Đức Phật. Trong quan niệm chung của Phật giáo, bao gồm các hệ thống giáo lý của Nam tạng và Bắc tạng, đều ghi nhận quá trình lâu xa hành đạo Bồ Tát để cảm thành thọ mạng hôm nay của Đức Phật. Quá trình lâu dài kết nối nhân hạnh quả đức đó không để lại dấu vết nào trong khuôn khổ tri thức của con người đối với một Đức Phật lịch sử. Lịch sử không thể ghi lại được thời điểm khi Đức Phật lần đầu phát thiện tâmđịa ngục A-tỳ (A-tỳ ngục tốt sơ phát thiện tâm); cũng không thể ghi chép được ba A-tăng­kỳ, trăm kiếp tu hành viên mãn của Ngài (Tam kỳ quả mãn, báck kiếp nhân viên). Vì thế, khác với Tích môn, Bổn môn chỉ đến đời sống công đức viên thành của Đức Phật từ quá khứ lâu xa cho đến bây giờ và mãi tận ngàn sau. Đấy chính là ngun tugiác vô thượng và thmng vô cùngĐức Pht đã thành tu tvô lượng kiếp. Nguồn ánh sáng bất diệt ấy cũng chính là cội nguồn của sức mạnh tâm linh, là bản thể thường tại của đức Phật. Nguồn mạch tâm linh tối tôn vô thượng đó được được mô tả qua khái niệm cu vin tht thành; với ý nghĩa rằng Đức Thích Ca Mâu Ni đã thành Phật từ lâu xa, từ vô lượng vô số kiếp, và rằng Ngài là Đức Phật chân thật bật diệt, thường trụ vĩnh hằng. Khái niệm Bổn môn, do đó, mở ra một cái nhìn khác, vượt ngoài chiều kích của không gianthời gian về sự hiện hữu của Đức Phật chân thật. Qua lăng kính Bổn môn, đời sống vĩnh hằng của Đức Phật vượt lên trên khung thời gian hữu hạn từ sinh đến diệt và không gian giới hạn ở các trú xứ thị hiện lâm thời của Phật, từ vườn Lâm-tỳ-ni đến rừng Ta-la song thọ, Kusinaga. Có thể ví dụ, Đức Phật chân thật, cửu viễn (Bổn phật) như mặt trăng thường tại trên trời, trong khi Đức Phật thị hiện (Tích Phật) như ánh trăng dưới nước, khi xuất hiện (đản sinh) khi biến mất (niết bàn). Thể nhập vào thế giới thực tại của Bổn môn, do đó, là mục tiêu cuối cùng của hành giả Pháp Hoa. Ởđây, vì có trăng trên trời nên mới có ánh trăng xuất hiện dưới nước. Nhờ thấy được trăng dưới nước nên mới biết có trăng trên trời. Cũng vậy, Bổn và Tích xuất hiện như một cặp chân lý hiện hữu song hành, có bùn mới có sen. Điều quan trọng là, dù chưa thể nhận ra sự hiện diện thường trú của Đức Phật cửu viễn do trình độ tâm chứng giới hạn, chúng ta vẫn không thể dừng lại ở những gì diễn ra trong Tích môn. Đấy là lý docon đường Bổn môn được xây dựng bằng cách: khai mở phương tiện để thể nhập thế giới chân thật (khai tích hin bn), đem tất cả phương tiện của Tích môn để trở về hội nhập với Bổn môn (hi tích quy bn), và sau cùng, như qua sông rồi, con thuyền cần được để lại đằng sau (phế tích lp bn).

Hai cách tiếp cận của Tích môn và Bổn môn là một dấu ấn rất đặc trưng của Pháp Hoa. Tuy vậy, chúng ta dường như vẫn thấy được một cái gì đó rất chung nhất có mặt ở cả Tích môn và Bổn môn. Phải chăng cái chung nhất đó chính là cửa ngõ diu hu "phi nhất phi dị" để đi vào tri kiến Phật mà ởđó Bổn-Tích cũng nhất như, như nhân-quả nhất như. Trong Tích môn, phẩm Phương Tiện (chương hai) là nội dung chính, trong Bổn môn, phẩm Như Lai Thọ Lượng (chương 16) là nội dung chính. Ở hai chương chính này đều có những chỉ dẫn rất quan trọng cho hành giả về một hướng đi trực tiếp thnhp Pht tri kiến. Vấn đề này sẽ được trình bày cụ thể trong phần nội dung. Tại đây, có lẽ không cần thiết phải đề xuất thêm một khái niệm mới để dẫn vào thế giới thực tại của Pháp Hoa. Làm như thế chỉ thêm phần rối rắm. Trong khi đó con đường khai thngnhp Pht tri kiến của Pháp Hoa tự nó đã nói lên tất cả mục đích của giáo lý Pháp Hoa.

Ngôn Ngca Pháp Hoa: Ngôn ngữ của Pháp hoa là một chủ đề quan trọng trong cách thức tiếp nhận và lĩnh hội giáo nghĩa viên đốn. Các nhà nghiên cứu thường đề cập đến phong cách văn học đặc thù của Pháp Hoa, trong đó kinh được trình bày qua dòng ngôn ngữ biểu tượng. Tuy nhiên, trên thực tế, kinh cũng bao quát nhiều thể loại ngôn ngữ bao gồm thí dụ, ẩn dụ, phân tích, giải thích .v.v. Chính vì vậy, có những giáo huấn được trình bày một cách cụ thể, dễ hiểu và dễ lĩnh hội. Ví dụ, ở Phẩm Pháp Sư (chương mười), khi nói về ba điều kiện của hành giả Pháp Hoa, Đức Phật đưa ra ba hình ảnh cụ thể, nhà Như Lai, áo Như Lai, và toà Như Lai; rồi Ngài cắt nghĩa rõ nhà Như Laitâm tbi, áo Như Laihnh nhu hoà nhn nhc, và toà Như Laian trú pháp Không. Ởđây, chúng ta không cảm thấy khó khăn trong việc tiếp nhận những giáo huấn như vậy. Tuy nhiên, phần lớn nội dung trọng yếu của Pháp Hoa được trình bày thông qua những câu chuyện với nhiều hình ảnh biểu tượng, nhưng không có những giải thích cụ thể những hình ảnh biểu tượng đó. Chẳng hạn như, hình ảnh ánh sáng lông trắng giữa chặn mày, trời đất sáu điệu vang động, trời mưa hoa, nhà bếp và chén bát ở cõi trời rơi xuống, chư thiên tung thiên y lên trên trời, chiếc ytự xoay vần rồi trụ giữa hư không, hình ảnh tháp của Phật Đa Bảo xuất hiện .v.v. Có rất nhiều hình ảnh như thế xuất hiện trong kinh và được lặp đilặp lại nhiều lần. Ởđây, rõ ràng chúng ta không thể giải minh những hình ảnh như thế theo nghĩa đen hay theo cách thức của một câu chuyện thần thoại. Người đọc, vì vậy, phải đi qua các lớp nghĩa biểu tượng mới có thể nắm bắt được ý nghĩanội hàm sâu kín bên trong câu chuyện và những gì được mô tả. Đây cũng là một trong những lý do khiến nhiều người cảm thấy khó khăn trong việc tiếp nhận giáo lý thánh diệu của kinh. Không thể phủ nhận rằng, càng đi sâu vào thế giới tâm linh thì những điều được trình bày trong kinh càng trở nên xa lạ với thế giới trần tục, mang nhiều hình ảnhbiểu tượng thần bí.

Vậy tại sao Pháp Hoa không nói thẳng vào vấn đề mà phải trình bày vấn đề qua ngôn ngữ biểu tượng? Có thể nói, trước hết, Đức Phật đã tuyên bốthông điệp của kinh rằng, "Chư Pht Thế Tôn ra đời chvì mt đại snhân duyên đó là khai thchúng sinh ngnhp Pht tri kiến." Tuy nhiên bản chất của tri kiến ấy là gì thì không thể diễn đạt được. Bởi vì ngôn ngữ phàm tục của chúng ta trở nên bất lực trước các pháp vô tướng, không có khả năng diễn đạt về tht tướng vô tướng. Ởđây, tri kiến Phật là pháp vô tướng. Tất cả pháp vô lậu, các Ba-la-mật .v.v. đều là pháp vô tướng. Ngay cả thật tướng của cuộc đời cũng là pháp vô tướng. Và như thế, không thể dùng cái hữu tướng để diễn đạt cái thc ti vô tướng được. Những gì có thể diễn đạt được chỉ là bóng dáng của thực tại mà thôi. Càng miêu tả, càng xa rời thực tại. Chính vì vậy, trong ý nghĩa phương tiện, Pháp Hoa được trình bày qua dòng ngôn ngữ biểu tượng để qua đó chúng ta có thể tiếp nhận được thánh giáo về thế giới tâm linh. Trong ngôn ngữ biểu tượng, tất nhiên, khi nói đến cái biu tượng, chúng ta sẽ lập tức nghĩ đến cái được biu tượng, một cái gì đó hoàn toàn khác với bản thân cái biểu tượng. Cũng như khi nói chim bồ câubiểu tượng cho hoà bình, dĩ nhiên hoà bình không có nghĩa là chim bồ câu. Và như thế, thông qua cách trình bày của ngôn ngữ biểu tượng, cái được biểu tượng sẽ không còn bịđóng khung vào một phạm trù giới hạn nào hết. Từđây, người thọ trì Pháp Hoa tuỳ vào năng lực của mình mà có thể tiếp nhận giáo huấn linh diệu của Phậtmột cách sinh động, cũng như có thể lĩnh hội được cái vô biên ngay trong đời sống hữu hạn. Cái vô biên, bất khả thuyết đó chính là tri kiến Phật vốn thường tại vĩnh hằng trong mỗi chúng ta.

Hành trình xây dng biu tượng ca Pháp Hoa: Đây là một chủ đề quan trọng nhằm cắt nghĩa, giải minh những biểu tượng tâm linh nhưđã được trình bày trong kinh. Biểu tượng nào cũng có một lịch sử của nó, cho dù nó thuộc về cái thiêng liêng hay trần tục, thuộc về tôn giáo hay xã hội. Ởđâu cũng vậy, lịch sử hình thành của cái biu tượng chính là nền tảng để giải thích cho cái được biu tượng. Do đó, sự hiểu biết ít nhiều của chúng ta về kinh Pháp Hoa, dù chỉ trên mặt tri thức, đều phải dựa vào những giáo huấn của Đức Phật được nối kết suốt chiều dài lịch sử của tư tưởng Phật giáo, và được trình bày qua những bộ kinh trước đó như các kinh Nikaya hoặc A­hàm. Trong trường hợp kinh Pháp Hoa, tên kinh được biểu thị qua hình ảnh hoa sen (Diệu pháp liên hoa), và hoa sen cũng là biểu tượng cho toàn bộ triết lý Pháp hoa. Do đó, ý nghĩa hoa sen trong kinh Pháp Hoa mà ngay nay chúng ta có được dĩ nhiênliên hệ chặt chẽ với ý nghĩa hoa sen trong các kinh từ thời nguyên thỉ, như kinh Pháp Cú chẳng hạn. Để hiểu biết chính xác vềý nghĩacủa một biểu tượng như hoa sen, trong trường hợp này, các nhà nghiên cứu về Pháp Hoa đã viện dẫn các chú giải vềý nghĩa hoa sen ngay từ trong các chuyện tích về cuộc đời của Đức Phật, đến các kinh Nikaya và các luận thư của Đại thừa sau này. Hơn thế nữa, các lĩnh vực thuộc về văn hoá và văn học liên quan đến hình tượng hoa sen trong thực tế tại Ấn Độ cũng đã được bàn đến trong việc giải thích ý nghĩa tên kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở phần sau.

Về mặt tâm linh, hoa sen là một trong những biểu tượng phổ biến nhất của Đạo phật, có mặt từ sự ra đời của Đức Phật lịch sử cho đến trong tất cả các thể loại kinh điểnvăn học Phật giáo. Cho đến thời đại của kinh Pháp Hoa, biểu tượng hoa sen trở thành đại diện cho một hệ tư tưởng đặc trưng trong dòng triết học Đại thừa, đấy là triết lý Nht tha-viên giáo. Ởđây các chuẩn mực tâm linh của nhiều truyền thống Phật giáo cũng được xây dựng qua hình ảnh hoa sen. Chúng ta có thể thấy triết lý và ý nghĩa hoa sen được thể hiện qua những cách ngôn chẳng hạn cư trn bt nhim (sống trong bùn mà không hôi tanh mùi bùn), sinh ttc niết bàn (niết bàn có mặt trong cõi sinh tử), hoa khai kiến Pht (sen nở thấy Phật) .v.v.

Nói tóm lại, những gợi ý về cách tiếp cận đối với kinh Pháp Hoa trên đây có thể giúp thêm hành trang cho chúng ta từng bước đi vào thọ trìnghiên cứu kinh. Có rất nhiều phương tiện để đi vào thực tại, lòng thành tín chân thật chắc chắn sẽ trợ duyên cho chúng ta rất nhiều. Tuy nhiên, cho đến khi nào nắm rõ ý nghĩa tiềm ẩn sâu thẳm bên trong những gì được nói ra hay được biểu thị, chúng ta mới thực sự bắt đầu tiếp nhận giáo huấn của Đức Phật một cách chính xác.

Sóng vxoá du chân không

Bng dưng thuyn đã sang sông ti bờ.

Tu vin Thượng Hnh mùa đông 2019 Khi Thiên







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13047)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 26976)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32824)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31611)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32537)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 12989)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12123)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17457)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18684)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12530)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11738)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13089)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12172)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12463)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11616)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11950)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10586)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10917)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28277)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11151)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11342)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13562)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11026)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11419)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10886)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11165)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26283)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12359)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14853)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11032)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20301)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12333)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11447)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10743)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23883)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11827)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12273)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12800)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11032)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38681)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10516)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12164)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17676)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24991)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10525)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10724)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12022)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11289)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11555)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14710)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21416)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9865)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11240)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27333)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11164)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11820)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 10994)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14283)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11454)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12619)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant