Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quan Niệm Thế Giới Địa Ngục

19 Tháng Mười Hai 202017:52(Xem: 2718)
Quan Niệm Thế Giới Địa Ngục
QUAN NIỆM THẾ GIỚI ĐỊA NGỤC
Tác giảThích Thắng Hoan

 

Quan Niem Ve The Gioi Dia Nguc

Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ. Một nhà truyền giáo đạo Phật mà không tin có thế giới địa ngục thì người đó phản bội lại với Phật Giáo và muốn đưa vấn đề này lên trên bình diện thực tại là một vấn đề khó khăn nhưng không phải là không được. Hôm nay,chúng ta xét nghiệm qua các tư liệu của Phật giáo:

 

1.-Bắt đầu chúng ta xét nghiệm qua các Kinh Luận: Các Kinh Luận đại khái như, Kinh Địa Tạng, KinhVu Lan Bồn, Kinh Trường Bộ, Luận Thuận Chánh Lý..v..v.....Muốn xét nghiệm những Kinh Luận này, trước hết chúng ta phải duyệt qua quá trình lịch sử của thời đại; thời đại thứ nhất, kể từ thời kỳ Đức Phật Thích Ca ra đời trở về trước được gọi là thời đại Thần Thông độc tôn, thời đại thứ hai, kể từ thời kỳ vào khoảng 2000 năm sau Phật nhập diệtthời đại Võ Lâm độc tôn, thời đại thứ ba là thời kỳ hiện đại được gọi là thời đại Khoa Học độc tôn.Chúng ta đang ở thờ đại khoa học độc tôn, nếu nhìn lại trở về trước vào thời đại thần thông và võ lâm độc tôn thì chỉ nhìn vào với đôi mắt huyền thoại, nhưng không nhìn vào với đôi mắt thực tế. Điển hình như gần đây hơn, vào năm 1963, đối với sự kiện“Trái Tim Bất Diệt”của Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn ở miền namViệt Nam, các vị sanh sau năm1975 đều cho đó là huyền thoại, không kiểm chứng được, nhưng còn những người sống vào thời kỳ đó, đã chứng kiến sự kiện đây đều xác nhận cho là thực tại; sự kiện Trái Tim Bất Diệt nếu là huyền thoại thì chánh phủ Hoa Kỳ không bỏ rơi chánh phủ Ngô Đình Diệm. Còn thời đại Võ Lâm Độc Tônthời đại người học võ phải thực hiện ba giai đoạn là đánh nhanh, nhảy cao và phi hành. Ba giai đoạn này của võ lâm, người học võ ai cũng đều biết, ở đây không cần bàn kỹ, vì nó không phải là chủ đề chính trong đề tài muốn nói. Chủ đề chính trong đề tài là những dữ kiện để chứng minhthế giới địa ngục hay không có. Để làm sáng tỏ thế giới địa ngục, chúng ta phải khảo sát qua những dữ kiện thần thông.

 

*- Một sự kiện thứ nhất là thời kỳ đức Phật Thích Ca ra đời vào thời đại thần thông độc tôn; theo sử liệu, người nào không có thần thông là người đó không có khả năng lãnh đạo, như bên Bà La Môn Giáo, hai vị lãnh tụ hai giáo phái là A La Lam (Alàrà-Kàlama) và Uất Đa Ma Tử (Uddaka-Ràmaputta), hai vị này đều chứng Ngũ Thông; còn bên Phật Giáo được kể đến nhiều nhất là hai vị Xá Lợi Phất (Sariputta) và Mục Kiền Liên (Moggallàna), hai vị này trước khi theo Phật Giáo là hai lãnh tụ thuộc hai giáo phái đạo thờ thần lửa, dưới trướng của hai vị này mỗi vị gồm có 500 đệ tử, hai vị này cũng đều chứng Ngũ Thông. Ngũ Thông gồm có: Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Thần Túc Thông, Túc Mạng ThôngTha Tâm Thông, riêng đức Phật Thích Ca chỉ hơn họ một thông là Lậu Tận Thông, ở đây chỉ nói đến dữ kiện mà không cần phải giải nghĩa.Theo lịch sử PhậtGiáo, đức Phật Thích Ca muốn độ ông em một cha khác mẹ là Nan Đà, vì ông này đam mê vợ quá mức, đầu tiên Phật dùng Thần Thông Lậu Tận dẫn ông lên Trời Đao Lợi vừa thăm mẹ là Hoàng Hậu Ma Da (Maya), vừa cho ông thấy mấycô tiên nữ ở đây đẹp hơn vợ của ông, kế đến Phật dẫn ông xuống cõi địa ngục để chứng kiến cảnh hành hạ của người dân ở dưới, sau khi thấy hai cảnh tượng này, ông Nan Đà mới chịu xuất gia theo Phật.

 

*-Một sự kiện thứ hai là đức Phật dùng thần thông để độ ông bà vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) nước Ma Kiệt Đà (Magadha) ở trong ngục; sự kiện này như thế nào, đức Phật Thích Ca sau khi thành đạo, ngài muốn chọn một nơi an toàn nhất để làm trung tâm phát huy tư tưởng của mình, ai cũng đều biết tư tưởng của ngài là đả phá giai cấpnô lệ, Ngài được vua Tần Bà Sa La, nước Ma Kiệt Đà hết mình ủng hộ, đức Phật chọn Tịnh Xá Trúc Lâm làm trung tâm phát huy tư tưởng của Ngài và được hai ông bà vua Tần Bà Sa La đứng ra bảo trợ, cho nên trong thời gian đức Phật trụ tại nước này rất bình an không bị ai đến đánh phá chống đối; Thái tử A Xà Thế (Ajàtasattu) con của Vua Tần Bà Sa La, khi lớn lên liền cướp ngôi của vua cha và bắt hai ông bà bỏ tù cho chết đói, trong khi đó, đức Phật Thích Ca nghĩ tình công ơn của vua bảo trợ trong thời gian Ngài trụ ở nước Ma Kiệt Đà, đức Phật liền phái đức Mục Kiền Liên lén bay vào trong ngục không cho ai biết để hướng dẫn ông bà niệm Phật A Di Đà tu gieo duyên, đồng thời đức Phật sử dụng Thần Thông Lậu Tận dùng hào quang thâu nhỏ lại thế giới Cực Lạc và Phật A Di Đà đang thuyết pháp đem hiện rõ trong ngục để hai ông bà đặt trọn niềm tin hướng về tu tập.

 

Hơn nữa, đây còn là một sự kiện đặc biệt chuyển biến lạ, bà hoàng hậuVi Đề Hy (Videhi), mẹ của thái tử A Xà Thế, được con nghịch tử thả ra, lẽ dĩ nhiên vua Tần Bà Sa La nhất định phải chết trong ngục. Khi bà hoàng hậu Vi Đề Hy được thả tự do, bà liền đến yết kiến đức Phật Thích Ca cầu xin Phật trình bày rõ về cõi Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà đang làm giáo chủ, đức Phật liền giảng Kinh Tiểu Bổn A Di Đà để cho bà và đại chúng cùng nghe, tiếp theo ở các đạo tràng khác, đức Phật cũng giảng Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, cùng các kinh quan hệ với Tịnh Độ cho bà và đại chúng cùng nghe.Từ đó tư tưởng Tịnh Độ được nằm trong kho tàng Kinh Tạng của Phật Giáo.

 

      Sau khi đức Phật giảng kinh A Di Đà xong, bà hoàng hậu Vi Đề Hy căn cứ theo tinh thần của Kinh A Di Đà đứng ra vận động thành lập phong trào tu tịnh độ niệm Phật A Di Đà do bà lãnh đạo qua sự bảo trợ của đức Phật Thích Ca, phong trào này được rất đông dân chún hưởng ứng tham dự, trong đó bao gồm cả giai cấp Phệ Xá, Thủ Đà Lanô lệ, vì phong trào lớn mạnh quá đông, để có tổ chức, bà hoàng hậu Vi Đề Hy ra lệnh tất cả các thành viên trong tổ chức phải mặc y màu trắngđể biểu tượng, cũng như các vị tỳ kheo xuất gia đều mặc y màu vàng để biểu tượng; y màu trắng của tổ chức là bà hoàng hậu Vi Đề Hy căn cứ theo ý nghĩa câu chuyện của bà hoàng hậu Ma Da nằm mộng thấy Bồ Tát Hộ Minh cởi con voi trắng sáu ngà từ trên trời bay xuống khai hông bên hữu của bà chun vào, và từ đó bà hoàng hậu Ma Da sanh ra thái tử Tất Đạt Đa, câu chuyện màu trắng ở đây của con voi trắng sáu ngà là tượng trưng cho thanh tịnhgiải thoát của Bồ Tát, còn y màu trắng của bà hoàng hậu Vi Đề Hy chủ trương là tượng trưng cho sự trong sạchgiải thoát nô lệ. Phong trào này về sau được đức Phật chuyển thành phong trào Ưu Bà TắcƯu Bà Di nhằm để hộ trì Phật Pháp. Có thể khẳng định tông phái Tịnh Độ không phải có từ Trung Hoa do ngài Tuệ Viễn chủ trương mà tông phái này đã có từ Ấn Độ vào thời kỳ đức Phật Thích Ca còn tại thế do bà hoàng hậu Vi Đề Hy lãnh đạo.

 

      *- Một sự kiện thứ ba là đức Phật sử dụng thần thông tạo dựng năm đàn Lăng Nghiêm để hỗ trợ và sai Bồ Tát Văn Thù đem chú Lăng Nghiêm đến hoá giải thần chú Ta Tỳ La Phạm Thiên của dâm nữ Ma Đăng Già để cứu ông A Nan; từ câu chuyện dâm nữ Ma Đăng Già đó mới có Kinh Lăng Nghiêm nằm trong kho tàng Kinh Tạng của Phật Giáo.

 

Nhìn  qua  ba sự kiện của đức Phật Thích Ca sử dụng Thần Thông để hoá độ chúng sanh trong thời đó cũng đủ chứng minh đức Phật đã chứng Thần Thông, nhưng vì đức Phật không cho các đệ tử sử dụng thần thông để truyền giáo (điều này được thấy trong truyện Tăng Đồ Nhà Phật), cho nên cũng từ đó kỷ năng đào luyện thần thông đã mất chân truyền trong dân gian và đã chìm sâu quên lãng lâu đời trong xã hội. Nhờ chứng đắc thần thông, đức Phật đã sử dụng kỷ thuật truyền giáo vô cùng độc đáo ở chỗ là Ngài sử dụng mà không ai biết. Đức Phật sử dụng kỷ thuật thuyết pháp có hai cách: Đạo Tràng Thuyết PhápThiền Định Thuyết Pháp.

 

Đạo Tràng Thuyết Phápđức Phật thuyết pháp nơi đạo tràng bằng tiếng Ấn Độ gồm có hội chúng khoảng 1250 đệ tử và các vua chúa, các quần thần, các dân chúng đều tham dự; đồng thời ngài cũng dùngThiền Định Thuyết Phápsử dụng Thần Thông Lậu Tận để chuyển ngữ cho các cõi khác đều cùng nghe. Thí dụ như chúng ta thuyết pháp tại chùa cho các Phật tử của chùa nghe, đó gọi là Đạo Tràng Thuyết Pháp, đồng thời chúng ta cũng dùng On Line để phổ biến cho người Việt Nam khắp nơi trên thế giới đều cùng được nghe, đó thí dụThiền Định Thuyết Pháp; Điều đặc biệt hơn, đức Phật chẳng những dùng thiền định thuyết pháp mà còn sử dụngThần Thông Lậu Tận để chuyển ngữ, thí dụ như nơi Trung Tâm Liên Hiệp Quốc, các quốc gia trên thế giới đến tham dự, trong đó có mặt người Việt Nam,n gười Việt Nam phát biểu bằng tiếngViệt Nam, nhưng người các quốc gia khác đều nghe được qua tiếng của họ, đấy thí dụchuyển ngữ bằng Thần Thông Lậu Tận. Vấn đề này được thấy nơi Phẩm Đại Hội số 19 trong Trường Bộ Kinh.

 

2.- Giờ đây bước sang lãnh vực thế giới Địa Ngục. Muốn rõ thế giới Địa Ngục như thế nào, chúng ta phải đọc lại Kinh Địa Tạng. Kinh Địa Tạngkinh điển nhằm diễn tả toàn bộ thế giới Địa Ngục, đồng thời giới thiệu Bồ Tát Địa Tạng, người làm giáo chủ cõi U Minh mà tất cả Phật tử ai cũng đều biết nội dung của Kinh Địa Tạng này. Ngoài ra còn cóKinh Vu Lan cũng nói về thế giới Địa Ngục là nơi mà ngài Mục Kiền Liên xuống nơi đó để cứu mẹ.Ở đâychúng ta chỉ cần tìm hiểu về xuất xứ của bộ kinh này và xác nhận bộ kinh này chính là của đức Phật Thích Ca thuyết pháp thì từ đó chúng ta mới tin tưởng thế giới Địa Ngục là có thật.

 

      Qua những dữ kiện vừa trình bày ở trên chứng tỏ đức Phật Thích Ca là người đã chứngThần Thông và cũng là người thường sử dụng hai cách thuyết pháp: thiền địnhđạo tràng. Thế giới Đao Lợi là một trong những thế giới trong nội tâm A Lại Dađức Phật Thích Ca xuất thần lên thế giới đó bằng Đại Định Kiên Cố mà người đời thường gọi là xuất hồn, Ngài bay lên đó trong ba tháng để thuyết kinh Địa Tạng cho mẹ và các vua trời cùng nghe; trường hợp này cũng giống như chúng ta ngủ mê một giấc mơ dài thấy mình bay về Việt Nam thăm bà con ( xuất hồn) và cùng họ đi tham quan các nơi, các cảnh đâyđã có đầy đủ trong nội tâm A Lại Da của chúng ta, chúng ta khi thức giấc (tỉnh giấc) vẫn nhớ lại rành mạch không thiếu sót; hiện tượng này cũng giống như đức Phật Thích Ca sau khi ngài giảng Kinh Địa Tạng xong, trở về thế giới thực tại nơi Ấn Độ, ngài giảng lại cho các đệ tử  trong đạo tràng cùng nghe và đại chúng ghi lại những điều đức Phật giảng trên Cung Trời Đao Lợi, về sau được kết thành bộ kinh gọi là Kinh Địa Tạng và cũng được nằm trong danh bộ Tạng Kinh. Sự kiện trên thực sự cũng đủ chứng minh là có thế giới Địa Ngục và cũng nói lên được là có Bồ Tát Địa Tạng đang làm giáo chủ cõi U Minh, cũng giống như đức Phật A Di Đà hiện đang làm giáo chủ nơi thế giới Cực Lạc phương Tây.

 

3.- Tiếp theo chúng ta nhìn qua lăng kính khác để tìm hiểu thế giới Địa Ngục. Cổ đức thường nói ‘Dương gian âm phủ đồng nhất lý,’ nghĩa là cõi dương và cõi âm, nguyên lý đều giống nhau (đồng nhất). Dương gian là chỉ cho thế gian cõi dương (thế gian chịu ảnh hưởng mặt trời) và âm phủ là chỉ cho thế giới cõi âm (thế giới không chịu ảnh hưởng mặttrăng). Theo DuyThứcHọc, thế giới cõi dương là chỉ cho thế giới ngoại cảnh (cảnh giới hiện ra bên ngoài), thế giới cõi âm là chỉ cho thế giới trong nội tâm A Lại Da (Tạng Thức). Dương gian âm phủ đồng nhất lý, chính là ám chỉ cho thế gian này có những cảnh giới nào mà chúng ta đã tham quan qua đều có mặt đầy đủ trong nội tâm A Lại Da của chúng ta, thí dụ chúng ta tham quan thành phố Hà Nội, thành phố Huế, thành phố Sài Gòn, thành phố Nam Hàn, thành phố San Jose ở nước Hoa Kỳ..v..v..... tất cả những thành phố đó đều có mặt trong nội tâm A lại Da của chúng ta, đây là nói lên ý nghĩa dương gian âm phủ đồng nhất lý.

 

Cũng từ ý nghĩa này, chúng taý niệm rằng, thế gian có những trại tù để nhốt những kẻ phạm tội thì nơi thế giới cõi âm cũng có những địa ngục để đối trị những kẻ tội ác; thế gian này có những kẻ du đãng cõi dương thì thế giới cõi âm cũng có ngạ quỷ du đãng cô hồn; thế gian này có những loại súc sanh thì thế giới cõi âm cũng có những loại súc sanh giống như thế.

 

4.- Trở lại vấn đề thế giới Địa Ngục, thế giới Địa Ngục là nơi để đối trị tánh tội của chúng sanh, còn trại tù ở thế gian là nơi chỉ đối trị tướng tội của chúng sanh; tướng tội là những tội lỗi do lời nói và hành động gây tạo, còn gọi là tội lỗi của thân nghiệpkhẩu nghiệp; riêng tánh tội là những tội lỗi do tâm ý chủ mưu xúi dục, còn gọi là tội lỗi của ý nghiệp. Con người có thể thoát khỏi trại tù nơi thế gian về tướng tội của thân nghiệpkhẩu nghiệp, nhưng không thể toát khỏi trại tù của Địa Ngục nơi nội tâm về tánh tội của ý nghiệp.

 

a/- Cơ sở của thế giới Địa Ngục. Thế giới Địa Ngụcthế giới của nội tâm không phải là thế giới của ngoại cảnh và cũng không ảnh hưởng chút gì nơi thế giới ngoại cảnh, trường hợp này cũng giống như chúng ta đang nằm mơ, tâm chúng ta chun vào thế giới mộng mơ đi du ngoạn, chúng ta lái xe chở bạn đi khắp thành phố trong mơ, trong lúc đó, chúng ta lái xe không đụng giường của chúng ta đang ngủ, không đụng nhà của chúng ta ở, không đụng thành phố của chúng ta đang sống, khi tỉnh lại chúng ta mới biết mình đang nằm mơ.

 

Cũng trong tinh thần dương gian âm phủ đồng nhất lý, ngược lại âm phủ có những hiện tượng gì thì trên dương gian cũng có những hiện tượng đó, như có những chúng sanh chịu ảnh hưởng mặt trời, nghĩa là họ sống nhờ ánh sáng mặt trời thì mới thấy đường, mới sinh hoạt và khi về đêm thì họ không thấy đường, họ không sinh hoạt và họ đi ngủ, cụ thể như con người..v..v....chỉ sinh hoạt ban ngày, không sinh hoạt ban đêm, đây chính là nguyên lý; có những loại chúng sanh chỉ sinh hoạt về ban đêm và có ảnh hưởng với mặt trăng, như về loài súc vật gồm có: loài dơi, loài chim quốc, loài cú mèo..v..v....; 

 

b/- Còn như về loài ngạ quỷ, những loại này do nghiệp báo tham lam, ích kỷ, bỏn xẻn, keo kiết cực thịnh tạo nên, họ cũng sống về ban đêm và cũng ảnh hưởng mặt trăng giống như các loài súc vật nói trên. Theo Thuận Chánh Lý Luận, quyển 21 giải thích: vị trí cảnh giới của họ rất rộng lớn trải khắp nhân gian, chúng sanh ngạ quỷ có nhiều loại như:

-        Quỷ Vô Tài, là những loại quỹ và miệng của chúng nó có đầy lửa, có loại miệng của chúng nó nhỏ như kim, có loại miệng của chúng nó bay mùi hôi thúi.

-        Quỷ Thiển Tài, là những loài quỷ có long nhọn như kim, cól ông bay mùi hôi, có long làm cho chúng nó bị bệnh hoạn.

-        Quỷ Đa Tài, là những loài quỷ chuyên môn đi góp nhặt, tích lủy tài vật bằng mọi hình thức. Quỷ Đa Tài là danh từ chung, trong đó gồm có ba loại:

      + Khí Quỷ, là những loại quỷ chuyên môn đi nhận tài vật cúng bái của

người đời. Những loài quỷ này, người đời thường gọi là Ma, nhất là

chúng nó thường thân cận với bà con để kiếm ăn.

      + Thất Quỷ, là những loại quỷ chuyên môn đi lấy những tài vật bị thất

lạc của loài người bỏ quên và khiến loài người không thể tìm lại được.

      + Đại Khí Quỷ: là những loại quỷ vô cùng hung bạo chuyên môn giết

người để hút máu, để cướp đoạt tài vật..v..v..., nhất là giết người bắt

làm nô lệphục dịch cho chúng. Những loại quỷ này gồm có: Quỷ

Dạ Xoa, Quỷ La Sát, Quỷ Tỳ Xá..v..v...

Để chứng minh, hiện nay, nơi thành phố Orange County và thành phố San Jose, có hai nhà sang trọng, trong nhà có ba bốn phòng bỏ trống từ lâu không ai dám mướn, vì trong hai nhà đó có ma, ban đêm thường hiện hình đe doạ chủ mướn nhà, khiến họ phải bỏ nhà đi mướn nơi khác.

c/- Nhìn lại lần nữa về vấn đề thế giới Địa Ngục.Vị trí của những thế giới này, theo như Kinh Địa Tạng ở rải rác khắp trong lòng núi Thiết Vi nơi Nam Thiệm Bộ Châu, cũng gọi là Nam Diêm Phù Đề, những người sống trong đó không biết gì về ánh sáng mặt trờimặt trăng, cũng giống như loài cá sống sâu dưới đáy biển và chỗ đó không có chút nào ánh sáng mặt trời mặt trăng, chúng nó nếu lên tới mặt biển là không thấy đường và bong bóng của nó liền bị bể mà chết, khác hơn loài rùa..v..v...chúng nó sống giao thoa với thế giới loài ngườithế giới loài cá, nghĩa là chúng nó lên bờ sống cũng được và xuống dưới nước sống cũng được, cũng có chỗ gọi thế giới của loài rùa là Trung Giới. Cho nên thế giới Địa Ngục cũng được gọi là thế giới U MinhBồ Tát làm giáo chủ thế giới đó gọi là: U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát.

5.-Tóm lại, Kinh Địa Tạngbộ kinh có thật của chính đức Phật Thích Ca thuyết pháp tại cung trời Đao Lợi để giới thiệu cho mẹ và các vị vua trời nói trên. Bộ Kinh này được đức Phật giảng lại cho đại chúng lúc bấy giờ nghe và từ đó được kết tập thành một trong những Kinh Tạng. Tiếp theo có thể khẳng định thế giới Địa Ngụcthế giới có thật qua sự chứng minh của Kinh Địa Tạng, của Kinh Vu Lan và cũng có thật qua những dữ kiện vừa trình bày trên; thế giới Địa Ngục nhất định phải có, chính là trại tù khổng lồ của tâm linh nhằm để đối trị những tội lỗi về ý nghiệp của chúng sanh; chúng sanh tù tội mặc dù thoát khỏi trại tù của thế gian, nhưng không thể thoát khỏi trại tù Địa Ngục của tâm linh.

 

Sáng tác xong, ngày 24.09. 2019

Chùa Phật Quang

Trung Tâm phiên dịchsáng tác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11051)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12096)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12328)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20477)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12344)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12358)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11635)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11510)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22311)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13487)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29492)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11448)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16592)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 11896)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16735)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 11985)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17845)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12526)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13050)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14660)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22488)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10491)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 13957)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13797)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13627)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13785)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13818)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14733)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13708)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18293)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22656)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15281)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17192)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22311)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14157)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12479)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11064)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17652)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13096)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 12993)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18690)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17065)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13382)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12807)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14586)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14548)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15743)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13406)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27278)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13078)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16586)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21289)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
(Xem: 18688)
Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ...
(Xem: 22961)
Tự tính các pháp chính là Tự Thể của các pháp. Vì các duyên hòa hợp sinh ra các pháp nên nếu các duyên tan rã thì các pháp mất do đó các pháp khôngtự tính cá biệt.
(Xem: 19963)
Ðọc Bát Nhã Tâm Kinh, tôi thấy như có một luồng gió mới, nó phá bỏ tất cả quan niệm, chối bỏ luôn cả cái hiện hữu. Tôi viết bài nầy theo sự hiểu biết đơn giản của tôi...
(Xem: 9358)
Tác Giả: Thiền Sư Bhante Henepola Gunaratana, Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh; Nhà xuất bản Phương Đông
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant