Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Suy Niệm Về Kinh Biệt Giải Thoát Giới

21 Tháng Giêng 202119:15(Xem: 4764)
Suy Niệm Về Kinh Biệt Giải Thoát Giới

Suy Niệm Về Kinh Biệt Giải Thoát Giới

Sakya Như Bảo

 Định Nghĩa Chánh Niệm



Kinh Biệt Giải Thoát
Giới
- tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya do Tôn giả Maha Moggallāna  thuyết tại rừng Bhesakala. Nội dung bản kinh nêu rõ những đặc tính khiến vị Tỳ kheo trở nên khó nói, khó trao đổi góp ý. Tôn giả Maha Moggallāna chỉ rõ sự thiệt thòi của một người cố chấp khi ở trong Tăng đoàn sẽ không tiếp thu, học hỏi được gì từ các thiện tri thức, sống trong Phật pháp nhưng chẳng thể thưởng thức được vị đề hồ của diệu pháp. Qua đó, Ngài cũng chỉ cho các Tỳ kheo cách tự soi xét bản thân để tẩy trừ những khuyết điểm trong nhân cách.

1. Hai Hạng Người Trong Chúng

Tôn giả Maha Moggallāna phân loại hai hạng người ở trong chúng. Một hạng khó nói, khó trao đổi, góp ý; hạng còn lại thì dễ nói, dễ trao đổi và góp ý.

Hạng khó nói là những người đang vướng vào các bất thiện tâm gồm mười sáu ác pháp như sau:

(1)    Ác dục: bị những ham muốn bất chánh dẫn dắt tạo ra ác nghiệp.

(2)    Khen mình chê người: tự cho mình là đúng và phỉ báng người khác

(3)    Phẫn nộ: sân siđộc ác

(4)    Hiềm hận: thù dai và thâm hiểm

(5)    Cố chấp: ngoan cố không nhận ra lỗi lầm của mình

(6)    Thốt lời giận dữ khi bị chỉ lỗi

(7)    Chống đối: phản ứng kịch liệt mỗi khi bị cử tội

(8)    Chỉ trích: chỉ trích lại người chỉ lỗi mình

(9)    Chất vất: căn vặn lại người cử tội mình.

(10)    Nói lảng: tránh né lời buộc tội bằng cách lảng sang chuyện khác, trả lời ngoài vấn đề, hoặc buộc tội lại người khác.

(11)    Không giải thích: không giải thích tường tận hành động phạm tội của mình cho người cử tội.

(12)    Hư nguỵ, não hại: phao tin đồn nhảm, bóp méo sự thật hoặc ngụy tạo chứng cứ, vu khống để hại người.

(13)    Xan tham, tật đố: chiếm hữu riêng tư và ganh tị phước duyên của người.

(14)    Lừa đảo: dùng thủ đoạn tinh vi để gạt gẫm những người nhẹ dạ, cả tin. 

(15)    Ngã mạn: cống cao ngã mạn, tự cho mình là hay, giỏi hoặc có công lao.

(16)    Khó xả: cố chấp tư kiến, không hành hạnh buông xả.

Những ai sống trong đại chúng mà có một trong các bất thiện pháp trên sẽ bị xem là khó nói, khó dạy bảo, không được các bậc trưởng thượng giáo huấn và các bạn đồng tutrí tuệ góp ý, trao đổi. Ngược lại, vị nào tâm không có các cấu uế ấy thì được xem là người dễ thương, dễ bảo, sẽ được các bậc tôn túc chỉ dạy và pháp lữ quý mến, xây dựng.

Tôn giả Maha Moggallāna khẳng định rằng: Những người cố chấp, không kham nhẫn và không cung kính khi nghe giáo thọ chỉ dạy sẽ bị liệt vào hạng không đáng nói đến và không đáng được tin tưởng. Những vị này sẽ không nhận được sự dạy bảo, khuyên nhủ của đại chúng và do vậy sẽ chịu nhiều thiệt thòi trong đời sống phạm hạnhhiện tại cũng như tương lai. Trái lại, một vị tu sĩ dễ thương, dễ dạy bao giờ cũng có được nhiều lợi lạc khi sống trong Tăng đoàn.

2. Tự Xét Mình – Bổn Phận Thiết Yếu Của Người Xuất Gia

Mười sáu ác pháp trên, thực chất chỉ là những hình thái phát tán khác nhau của ngã chấp. Người cầu đạo giải thoát phải quyết tâm, nỗ lực vươn mình ra khỏi vũng lầy chấp ngã, loại bỏ dần những tập khí xấu ác, những phiền não rối ren, vô minh hắc ám để  thiết lập đời sống thanh cao ý vị, lợi lạc cho tự thân và tha nhân. Như thế mới không uổng phí một kiếp người. Người xuất gia chân chánh phải luôn không ngừng tự soi xét bản thân, trung thực với chính mình, mỗi bước đi đều phải thận trọng, cân nhắc trong từng ý niệm ngôn hành, từng chút một làm lung lay thành trì tự ngã, mãi cho đến khi nó được tháo gỡ hoàn toàn.

Sống trong lòng đại chúng, được các bậc trưởng thượng và chư vị đồng phạm hạnh nhắc nhỡ, chỉ bày điều hay lẽ phải để hoàn thiện nhân cách là một phước duyên rất lớn. Người bản năng chấp ngã quá sâu dày, một mực ngang bướng cố chấp không chịu tiếp thu lời góp ý, xây dựng thì dù ở lâu trong đạo cũng khó mà có được sự thăng tiến tâm linh. “Cái Tôi” càng lớn thì phiền não càng nhiều, khổ đau theo đó cũng càng lắm.

Thật ra, không cần toàn bộ mười sáu cấu uế trên có mặt, chỉ nội một ác pháp thôi - như tật đố chẳng hạn - cũng đủ để đốt cháy tâm can, khiến người ta bứt rứt, đau khổ dai dẵng không ngừng, nên nói: “bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị”. Trong bất cứ một tập thể hay tổ chức nào, chỉ cần phảng phất bóng dáng của lòng ganh ghét là nội bộ sẽ trở nên lủng củng, suy yếu ngay. Loại cảm xúc tiêu cực này phát sinh từ sự nhận thức lệch lạc, sai lầm do thiếu hiểu biết về dòng chảy nhân quả, nghiệp báo. Ở trong đại chúng, sự có mặt của tính đố kị sẽ làm hủy hoại đạo tình pháp lữ, khiến mất đi hòa khí, dẫn đến những rạn nứt, đổ vỡ, tổn thương; gây chia rẽ, tranh chấp hoặc ngấm ngầm hoặc bùng nổ, làm phá vỡ tinh thần Lục hòa cao đẹp của Tăng đoàn.

Do tính chất đặc biệt liên hệ đến đời sống cộng đồng nên bản Kinh này được xếp vào Thiền môn Nhật tụng của Phật giáo Nam truyền và vị tu sĩ nào cũng phải một ngày ba lần tự soi rọi lại bản thân, kiểm điểm tâm ý mình theo đó mà tu tập. Nếu quán xét tự thân có một hoặc nhiều trong số mười sáu ác pháp trên thì phải nỗ lực đoạn trừ tận gốc rễ chúng. Nếu thấy người khác có những bất thiện pháp đó thì lập tức kiểm soát lại mình để phòng hộ và nguyện tránh xa những điều ấy. Bằng như sau khi quan sát thấy tâm mình không tích tập những cấu uế trên thì nên hoan hỷ, tinh tấn hơn nữa để tu tập các thiện pháp, đúng như Giới Kinh đã dạy: “Như người tự soi gương, đẹp xấu sinh vui buồn.”

3. Hòa Hợp và Tương Kính – Yếu Tố Then Chốt Tạo Nên Sự Vững Mạnh Của Tăng Đoàn

     Cộng đồng Tăng lữ lấy Lục hòa làm căn cứ. Trong Phật pháp không tồn tại thứ quyền uy thống trị, cũng chẳng có ân sủng thưởng ban. Tất cả đều dựa vào ý thức giữ gìn tịnh giới và sự tôn trọng hòa hợp với Tăng thân của mỗi cá nhân. Đã sống trong cùng một trú xứ, chúng ta không thể tách rời hay tự cô lập, lách mình ra khỏi những mối tương giao thường nhật với huynh đệ đồng tu và môi trường xã hội. Thế nên, là đệ tử xuất gia của Phật thì đều phải tuân thủ sáu pháp hòa kính. Nhờ vâng giữ Lục hòađời sống phạm hạnh của mỗi cá nhân và tập thể sẽ trở nên an ổn, thanh tịnh.

     Chư Tổ ngày xưa vẫn thường dạy: “Nhược yếu Phật pháp hưng, duy hữu Tăng tán Tăng”, nghĩa là nếu muốn Phật pháp hưng thịnh thì chỉ có Tăng khen ngợi Tăng. Thật vậy, người thế gian vẫn nói: “gia hòa vạn sự hưng”, sống trong một đoàn thể như ở chung một mái nhà, nếu nhà dột nát xêu vẹo thì ai cũng phải nguy nan. Người xuất gia nếu biết hòa thuậnkính trọng lẫn nhau, tán thán, tùy hỷ, nâng đỡ, làm thành cho nhau thì ngôi nhà Phật pháp mới ngày càng hưng thịnh, lớn mạnh và vững chắc. Bằng ngược lại, sống ngờ vực, nghi kị, khen mình chê người, hủy báng, ghen ghét, chướng ngại lẫn nhau là tiếp tay làm cho Phật pháp suy vi. Nên nói, hòa hợp và tương kính là yếu tố then chốt tạo nên sự vững mạnh của Tăng đoàn là vì thế.

Thật ra, cõi ta bà vốn đã định sẵn là “bất như ý xứ” nên làm gì có cái gọi là “vạn sự như ý” của riêng mình. Thử quan sát trên một bàn ăn nhỏ cũng đủ để thấy những ‘cái Tôi’ được thể hiện rất rõ ràng, mỗi người một ý thích, không ai giống ai. Chẳng đâu xa, chính nội thân chúng ta đây cũng thường xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng: thứ thực phẩm mà miệng thấy thích thú thì gan và bao tử lại âm thầm phản đối, cái có lợi cho nội tạng thì vị giác thấy nản lòng. Chỉ trong một tấm thân tứ đại của mình đã tự chống trái lẫn nhau như thế huống gì đến thế giới bên ngoài mà mong lúc nào cũng đẹp lòng toại ý?

Trong Giới Kinh Đức Phật đã dạy rõ: “Đệ tử Phật phải can gián lẫn nhau, dạy bảo nhau, sám hối nhau .... hòa hợp vui vẻ không đua tranh, đồng học một Thầy, như sữa hòa với nước thì ở trong Phật pháp mới thêm lợi ích an vui.” Một người gạt bỏ tất cả những lời khuyên can, bất chấp mọi hệ lụy chỉ để khẳng định ‘cái Tôi’ giả danh thì thật là thiếu trí tuệ. Vị ấy tuy mang hình tướng sa môn mà kỳ thật tâm không hướng đến đạo quả sa môn. Người học đạo giải thoát cần luôn cảnh giác với bản thân, chớ nuôi dưỡng ‘cái Tôi’ của mình quá lớn, vì đến một lúc nào đó, nó sẽ trở thành mối hiểm họa không lường, một thế lực hắc ám, phá hủy toàn bộ đời sống tâm linh cao đẹp thì thật là đáng tiếc.

Lời Kết

Chuyện kể rằng, có một người tiểu thương nọ ngày ngày ra chợ bày bán hai cái giỏ tre đầy ắp. Một chiếc thì đậy nắp kín bưng, chiếc còn lại hoàn toàn bỏ ngỏ. Khách hàng hiếu kỳ đến xem thì thấy trong chiếc giỏ mở nắp là lũ Cua đang nhốn nháo, bò lổm ngổm, con nào cũng tranh nhau vươn lên thành giỏ để ra ngoài, nhưng cứ hễ một con vừa dợm leo lên liền lập tức bị những con khác lôi xuống. Rốt cuộc chẳng có con nào thoát ra được. Vì thế, người tiểu thương chẳng cần phí công đậy nắp.

     Chiếc giỏ thứ hai thì hoàn toàn khác hẵn, im ắng đến lạ thường. Khi người khách vừa mở giỏ ra đã vô cùng kinh ngạc khi nhìn vào cảnh tượng bên trong. Những con Rùa đang nằm chất chồng lên nhau. Con rùa lớn nhất nằm lót ở dưới cùng, những con rùa to lớn khác lẳng lặng tuần tự nằm xếp lên trên, rồi lần lượt đến những con rùa nhỏ hơn, và cuối cùng, ở tầng cao nhất là một chú rùa bé xíu, nhỏ nhất trong đoàn.

     Giỏ tre vừa bật nắp, bé rùa con nằm ở trên cùng liền bò ra ngoài trước nhất. Lần lượt những chú rùa kế tiếp đều tranh thủ bò ra ngoài, con rùa lớn thứ hai trong số đó, nhờ vào sự nâng đỡ của con rùa lớn nhất nằm dưới cùng, cố gắng hết sứcrốt cuộc cũng may mắn thoát thân. Thoáng chốc, trong giỏ chỉ còn lại  mỗi con rùa đầu đàn to lớn. Nhìn cái vẻ điềm nhiên, bình thản và cặp mắt sáng ngời của nó người khách vô cùng thắc mắc. Đành rằng rùa là một trong tứ linh, nhưng so với con người thì chúng vẫn chỉ là những sinh vật nhỏ bé, thế mà giữa giờ phút khó khăn, chúng lại có thể cư xử với nhau đầy trí tuệ, ôn hòa, dũng cảm, vị tha và cao thượng như thế! Người tiểu thương e ngại, đậy kín chiếc giỏ này là phải!

     Con rùa đầu đàn đã chấp nhận hy sinh bản thân vì lợi ích của số đông, cho dù không được ra ngoài, nhưng nó chẳng những không ân hận, tiếc nuối mà còn cảm thấy hạnh phúc với lựa chọn của mình. Những con rùa nhỏ khi thoát thân an toàn, chắc chắn đều thấm thía và biết rất rõ nhờ đâu mà mình có được tự doan ổn, lòng cảm kích bất tận sẽ khiến chúng sống xứng đáng với sự hy sinh thầm lặng và vô cùng cao cả từ trưởng bối. Cuộc sống nơi cõi tạm ta bà này, đôi khi chỉ cần hai từ ‘trân trọng’ như thế là cũng đủ. Và tán thưởng chiếc giỏ nào - Cua hay Rùa - là việc của mỗi cá nhân!

     Vạn pháp trên thế gian đều do duyên sinh, nên hiển nhiênvô ngã. Sự hiện hữu của một pháp đồng nghĩa với sự có mặt của cả pháp giới: “Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất.” Muôn vật tương quan mật thiết với nhau như thế nên chẳng có bóng dáng hữu ngã nào có thể tồn tại độc lập, riêng lẻ giữa pháp giới duyên khởi trùng trùng. Đến một lúc, chúng ta sẽ cảm nhận sâu sắc tánh bình đẳng của các pháp, thấy rõ trong chúng sanh có mình, trong mình có chúng sanh, thành tựu hay khổ đau của người cũng chính là thành tựu và khổ đau của mình. Cho đến sơn hà đại địa, nhật nguyệt tinh tú, vô tình chủng loại, cát bụi bên đường, hay hoa đồng cỏ dại... đều hiện diện tròn đầy trong mình qua mỗi sát na sanh diệt. Từng bước quán chiếu như thế thì bản năng chấp ngã sẽ ngày một vơi dần, nhẹ bớt, vô minhkiết sử sẽ theo đó mà lần lần rơi rụng cho đến khi được phá vỡ hoàn toàn.

Từ xưa đến nay, Phật giáo vốn chú trọng đến việc thực hành chứ không phải lý thuyết suông. Bản Kinh Biệt Giải Thoát Giới, như thế, đã chỉ rõ lối đi thiết thực, giúp chúng ta tự soi rọi lại chính mình, từng bước hoàn thiện bản thân để cả TâmTướng đều xứng với danh xưng Sa môn Thích tử.

Ni viện Thiện Hòa, 19.9.2019

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2025)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3030)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2645)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3550)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3376)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4213)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3726)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4268)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2356)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3525)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4207)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3991)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2919)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3398)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3522)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4585)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3921)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4811)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4072)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3059)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3800)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3948)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3115)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3641)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4491)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3753)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2289)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2661)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3070)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2757)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4625)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4973)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2866)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5365)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2892)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3330)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4420)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4978)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4744)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3283)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4592)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4313)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6176)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3535)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4073)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6056)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5451)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4103)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33301)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3206)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4198)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 3119)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3848)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3585)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6595)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2805)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3257)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4627)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3491)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant