Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Suy Niệm Về Kinh Biệt Giải Thoát Giới

21 Tháng Giêng 202119:15(Xem: 4741)
Suy Niệm Về Kinh Biệt Giải Thoát Giới

Suy Niệm Về Kinh Biệt Giải Thoát Giới

Sakya Như Bảo

 Định Nghĩa Chánh Niệm



Kinh Biệt Giải Thoát
Giới
- tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya do Tôn giả Maha Moggallāna  thuyết tại rừng Bhesakala. Nội dung bản kinh nêu rõ những đặc tính khiến vị Tỳ kheo trở nên khó nói, khó trao đổi góp ý. Tôn giả Maha Moggallāna chỉ rõ sự thiệt thòi của một người cố chấp khi ở trong Tăng đoàn sẽ không tiếp thu, học hỏi được gì từ các thiện tri thức, sống trong Phật pháp nhưng chẳng thể thưởng thức được vị đề hồ của diệu pháp. Qua đó, Ngài cũng chỉ cho các Tỳ kheo cách tự soi xét bản thân để tẩy trừ những khuyết điểm trong nhân cách.

1. Hai Hạng Người Trong Chúng

Tôn giả Maha Moggallāna phân loại hai hạng người ở trong chúng. Một hạng khó nói, khó trao đổi, góp ý; hạng còn lại thì dễ nói, dễ trao đổi và góp ý.

Hạng khó nói là những người đang vướng vào các bất thiện tâm gồm mười sáu ác pháp như sau:

(1)    Ác dục: bị những ham muốn bất chánh dẫn dắt tạo ra ác nghiệp.

(2)    Khen mình chê người: tự cho mình là đúng và phỉ báng người khác

(3)    Phẫn nộ: sân siđộc ác

(4)    Hiềm hận: thù dai và thâm hiểm

(5)    Cố chấp: ngoan cố không nhận ra lỗi lầm của mình

(6)    Thốt lời giận dữ khi bị chỉ lỗi

(7)    Chống đối: phản ứng kịch liệt mỗi khi bị cử tội

(8)    Chỉ trích: chỉ trích lại người chỉ lỗi mình

(9)    Chất vất: căn vặn lại người cử tội mình.

(10)    Nói lảng: tránh né lời buộc tội bằng cách lảng sang chuyện khác, trả lời ngoài vấn đề, hoặc buộc tội lại người khác.

(11)    Không giải thích: không giải thích tường tận hành động phạm tội của mình cho người cử tội.

(12)    Hư nguỵ, não hại: phao tin đồn nhảm, bóp méo sự thật hoặc ngụy tạo chứng cứ, vu khống để hại người.

(13)    Xan tham, tật đố: chiếm hữu riêng tư và ganh tị phước duyên của người.

(14)    Lừa đảo: dùng thủ đoạn tinh vi để gạt gẫm những người nhẹ dạ, cả tin. 

(15)    Ngã mạn: cống cao ngã mạn, tự cho mình là hay, giỏi hoặc có công lao.

(16)    Khó xả: cố chấp tư kiến, không hành hạnh buông xả.

Những ai sống trong đại chúng mà có một trong các bất thiện pháp trên sẽ bị xem là khó nói, khó dạy bảo, không được các bậc trưởng thượng giáo huấn và các bạn đồng tutrí tuệ góp ý, trao đổi. Ngược lại, vị nào tâm không có các cấu uế ấy thì được xem là người dễ thương, dễ bảo, sẽ được các bậc tôn túc chỉ dạy và pháp lữ quý mến, xây dựng.

Tôn giả Maha Moggallāna khẳng định rằng: Những người cố chấp, không kham nhẫn và không cung kính khi nghe giáo thọ chỉ dạy sẽ bị liệt vào hạng không đáng nói đến và không đáng được tin tưởng. Những vị này sẽ không nhận được sự dạy bảo, khuyên nhủ của đại chúng và do vậy sẽ chịu nhiều thiệt thòi trong đời sống phạm hạnhhiện tại cũng như tương lai. Trái lại, một vị tu sĩ dễ thương, dễ dạy bao giờ cũng có được nhiều lợi lạc khi sống trong Tăng đoàn.

2. Tự Xét Mình – Bổn Phận Thiết Yếu Của Người Xuất Gia

Mười sáu ác pháp trên, thực chất chỉ là những hình thái phát tán khác nhau của ngã chấp. Người cầu đạo giải thoát phải quyết tâm, nỗ lực vươn mình ra khỏi vũng lầy chấp ngã, loại bỏ dần những tập khí xấu ác, những phiền não rối ren, vô minh hắc ám để  thiết lập đời sống thanh cao ý vị, lợi lạc cho tự thân và tha nhân. Như thế mới không uổng phí một kiếp người. Người xuất gia chân chánh phải luôn không ngừng tự soi xét bản thân, trung thực với chính mình, mỗi bước đi đều phải thận trọng, cân nhắc trong từng ý niệm ngôn hành, từng chút một làm lung lay thành trì tự ngã, mãi cho đến khi nó được tháo gỡ hoàn toàn.

Sống trong lòng đại chúng, được các bậc trưởng thượng và chư vị đồng phạm hạnh nhắc nhỡ, chỉ bày điều hay lẽ phải để hoàn thiện nhân cách là một phước duyên rất lớn. Người bản năng chấp ngã quá sâu dày, một mực ngang bướng cố chấp không chịu tiếp thu lời góp ý, xây dựng thì dù ở lâu trong đạo cũng khó mà có được sự thăng tiến tâm linh. “Cái Tôi” càng lớn thì phiền não càng nhiều, khổ đau theo đó cũng càng lắm.

Thật ra, không cần toàn bộ mười sáu cấu uế trên có mặt, chỉ nội một ác pháp thôi - như tật đố chẳng hạn - cũng đủ để đốt cháy tâm can, khiến người ta bứt rứt, đau khổ dai dẵng không ngừng, nên nói: “bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị”. Trong bất cứ một tập thể hay tổ chức nào, chỉ cần phảng phất bóng dáng của lòng ganh ghét là nội bộ sẽ trở nên lủng củng, suy yếu ngay. Loại cảm xúc tiêu cực này phát sinh từ sự nhận thức lệch lạc, sai lầm do thiếu hiểu biết về dòng chảy nhân quả, nghiệp báo. Ở trong đại chúng, sự có mặt của tính đố kị sẽ làm hủy hoại đạo tình pháp lữ, khiến mất đi hòa khí, dẫn đến những rạn nứt, đổ vỡ, tổn thương; gây chia rẽ, tranh chấp hoặc ngấm ngầm hoặc bùng nổ, làm phá vỡ tinh thần Lục hòa cao đẹp của Tăng đoàn.

Do tính chất đặc biệt liên hệ đến đời sống cộng đồng nên bản Kinh này được xếp vào Thiền môn Nhật tụng của Phật giáo Nam truyền và vị tu sĩ nào cũng phải một ngày ba lần tự soi rọi lại bản thân, kiểm điểm tâm ý mình theo đó mà tu tập. Nếu quán xét tự thân có một hoặc nhiều trong số mười sáu ác pháp trên thì phải nỗ lực đoạn trừ tận gốc rễ chúng. Nếu thấy người khác có những bất thiện pháp đó thì lập tức kiểm soát lại mình để phòng hộ và nguyện tránh xa những điều ấy. Bằng như sau khi quan sát thấy tâm mình không tích tập những cấu uế trên thì nên hoan hỷ, tinh tấn hơn nữa để tu tập các thiện pháp, đúng như Giới Kinh đã dạy: “Như người tự soi gương, đẹp xấu sinh vui buồn.”

3. Hòa Hợp và Tương Kính – Yếu Tố Then Chốt Tạo Nên Sự Vững Mạnh Của Tăng Đoàn

     Cộng đồng Tăng lữ lấy Lục hòa làm căn cứ. Trong Phật pháp không tồn tại thứ quyền uy thống trị, cũng chẳng có ân sủng thưởng ban. Tất cả đều dựa vào ý thức giữ gìn tịnh giới và sự tôn trọng hòa hợp với Tăng thân của mỗi cá nhân. Đã sống trong cùng một trú xứ, chúng ta không thể tách rời hay tự cô lập, lách mình ra khỏi những mối tương giao thường nhật với huynh đệ đồng tu và môi trường xã hội. Thế nên, là đệ tử xuất gia của Phật thì đều phải tuân thủ sáu pháp hòa kính. Nhờ vâng giữ Lục hòađời sống phạm hạnh của mỗi cá nhân và tập thể sẽ trở nên an ổn, thanh tịnh.

     Chư Tổ ngày xưa vẫn thường dạy: “Nhược yếu Phật pháp hưng, duy hữu Tăng tán Tăng”, nghĩa là nếu muốn Phật pháp hưng thịnh thì chỉ có Tăng khen ngợi Tăng. Thật vậy, người thế gian vẫn nói: “gia hòa vạn sự hưng”, sống trong một đoàn thể như ở chung một mái nhà, nếu nhà dột nát xêu vẹo thì ai cũng phải nguy nan. Người xuất gia nếu biết hòa thuậnkính trọng lẫn nhau, tán thán, tùy hỷ, nâng đỡ, làm thành cho nhau thì ngôi nhà Phật pháp mới ngày càng hưng thịnh, lớn mạnh và vững chắc. Bằng ngược lại, sống ngờ vực, nghi kị, khen mình chê người, hủy báng, ghen ghét, chướng ngại lẫn nhau là tiếp tay làm cho Phật pháp suy vi. Nên nói, hòa hợp và tương kính là yếu tố then chốt tạo nên sự vững mạnh của Tăng đoàn là vì thế.

Thật ra, cõi ta bà vốn đã định sẵn là “bất như ý xứ” nên làm gì có cái gọi là “vạn sự như ý” của riêng mình. Thử quan sát trên một bàn ăn nhỏ cũng đủ để thấy những ‘cái Tôi’ được thể hiện rất rõ ràng, mỗi người một ý thích, không ai giống ai. Chẳng đâu xa, chính nội thân chúng ta đây cũng thường xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng: thứ thực phẩm mà miệng thấy thích thú thì gan và bao tử lại âm thầm phản đối, cái có lợi cho nội tạng thì vị giác thấy nản lòng. Chỉ trong một tấm thân tứ đại của mình đã tự chống trái lẫn nhau như thế huống gì đến thế giới bên ngoài mà mong lúc nào cũng đẹp lòng toại ý?

Trong Giới Kinh Đức Phật đã dạy rõ: “Đệ tử Phật phải can gián lẫn nhau, dạy bảo nhau, sám hối nhau .... hòa hợp vui vẻ không đua tranh, đồng học một Thầy, như sữa hòa với nước thì ở trong Phật pháp mới thêm lợi ích an vui.” Một người gạt bỏ tất cả những lời khuyên can, bất chấp mọi hệ lụy chỉ để khẳng định ‘cái Tôi’ giả danh thì thật là thiếu trí tuệ. Vị ấy tuy mang hình tướng sa môn mà kỳ thật tâm không hướng đến đạo quả sa môn. Người học đạo giải thoát cần luôn cảnh giác với bản thân, chớ nuôi dưỡng ‘cái Tôi’ của mình quá lớn, vì đến một lúc nào đó, nó sẽ trở thành mối hiểm họa không lường, một thế lực hắc ám, phá hủy toàn bộ đời sống tâm linh cao đẹp thì thật là đáng tiếc.

Lời Kết

Chuyện kể rằng, có một người tiểu thương nọ ngày ngày ra chợ bày bán hai cái giỏ tre đầy ắp. Một chiếc thì đậy nắp kín bưng, chiếc còn lại hoàn toàn bỏ ngỏ. Khách hàng hiếu kỳ đến xem thì thấy trong chiếc giỏ mở nắp là lũ Cua đang nhốn nháo, bò lổm ngổm, con nào cũng tranh nhau vươn lên thành giỏ để ra ngoài, nhưng cứ hễ một con vừa dợm leo lên liền lập tức bị những con khác lôi xuống. Rốt cuộc chẳng có con nào thoát ra được. Vì thế, người tiểu thương chẳng cần phí công đậy nắp.

     Chiếc giỏ thứ hai thì hoàn toàn khác hẵn, im ắng đến lạ thường. Khi người khách vừa mở giỏ ra đã vô cùng kinh ngạc khi nhìn vào cảnh tượng bên trong. Những con Rùa đang nằm chất chồng lên nhau. Con rùa lớn nhất nằm lót ở dưới cùng, những con rùa to lớn khác lẳng lặng tuần tự nằm xếp lên trên, rồi lần lượt đến những con rùa nhỏ hơn, và cuối cùng, ở tầng cao nhất là một chú rùa bé xíu, nhỏ nhất trong đoàn.

     Giỏ tre vừa bật nắp, bé rùa con nằm ở trên cùng liền bò ra ngoài trước nhất. Lần lượt những chú rùa kế tiếp đều tranh thủ bò ra ngoài, con rùa lớn thứ hai trong số đó, nhờ vào sự nâng đỡ của con rùa lớn nhất nằm dưới cùng, cố gắng hết sứcrốt cuộc cũng may mắn thoát thân. Thoáng chốc, trong giỏ chỉ còn lại  mỗi con rùa đầu đàn to lớn. Nhìn cái vẻ điềm nhiên, bình thản và cặp mắt sáng ngời của nó người khách vô cùng thắc mắc. Đành rằng rùa là một trong tứ linh, nhưng so với con người thì chúng vẫn chỉ là những sinh vật nhỏ bé, thế mà giữa giờ phút khó khăn, chúng lại có thể cư xử với nhau đầy trí tuệ, ôn hòa, dũng cảm, vị tha và cao thượng như thế! Người tiểu thương e ngại, đậy kín chiếc giỏ này là phải!

     Con rùa đầu đàn đã chấp nhận hy sinh bản thân vì lợi ích của số đông, cho dù không được ra ngoài, nhưng nó chẳng những không ân hận, tiếc nuối mà còn cảm thấy hạnh phúc với lựa chọn của mình. Những con rùa nhỏ khi thoát thân an toàn, chắc chắn đều thấm thía và biết rất rõ nhờ đâu mà mình có được tự doan ổn, lòng cảm kích bất tận sẽ khiến chúng sống xứng đáng với sự hy sinh thầm lặng và vô cùng cao cả từ trưởng bối. Cuộc sống nơi cõi tạm ta bà này, đôi khi chỉ cần hai từ ‘trân trọng’ như thế là cũng đủ. Và tán thưởng chiếc giỏ nào - Cua hay Rùa - là việc của mỗi cá nhân!

     Vạn pháp trên thế gian đều do duyên sinh, nên hiển nhiênvô ngã. Sự hiện hữu của một pháp đồng nghĩa với sự có mặt của cả pháp giới: “Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất.” Muôn vật tương quan mật thiết với nhau như thế nên chẳng có bóng dáng hữu ngã nào có thể tồn tại độc lập, riêng lẻ giữa pháp giới duyên khởi trùng trùng. Đến một lúc, chúng ta sẽ cảm nhận sâu sắc tánh bình đẳng của các pháp, thấy rõ trong chúng sanh có mình, trong mình có chúng sanh, thành tựu hay khổ đau của người cũng chính là thành tựu và khổ đau của mình. Cho đến sơn hà đại địa, nhật nguyệt tinh tú, vô tình chủng loại, cát bụi bên đường, hay hoa đồng cỏ dại... đều hiện diện tròn đầy trong mình qua mỗi sát na sanh diệt. Từng bước quán chiếu như thế thì bản năng chấp ngã sẽ ngày một vơi dần, nhẹ bớt, vô minhkiết sử sẽ theo đó mà lần lần rơi rụng cho đến khi được phá vỡ hoàn toàn.

Từ xưa đến nay, Phật giáo vốn chú trọng đến việc thực hành chứ không phải lý thuyết suông. Bản Kinh Biệt Giải Thoát Giới, như thế, đã chỉ rõ lối đi thiết thực, giúp chúng ta tự soi rọi lại chính mình, từng bước hoàn thiện bản thân để cả TâmTướng đều xứng với danh xưng Sa môn Thích tử.

Ni viện Thiện Hòa, 19.9.2019

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2657)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6123)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3035)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3090)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3295)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3225)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3294)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4543)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2719)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5200)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3840)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3830)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3198)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4120)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5034)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3509)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6732)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3950)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3216)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3088)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2953)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5844)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4616)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3482)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2892)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3303)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4416)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5710)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6621)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3690)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4524)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4597)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3955)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3387)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4605)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6032)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5815)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3620)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4675)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4447)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4515)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4256)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4587)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8188)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3906)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5715)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5182)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6800)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6162)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5977)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5791)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6271)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6772)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4953)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5554)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6375)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3776)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5397)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10446)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6066)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant