Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Tánh: Tánh Không, Quang Minh, Và Năng Lực

23 Tháng Giêng 202118:37(Xem: 4086)
Phật Tánh: Tánh Không, Quang Minh, Và Năng Lực
Phật Tánh: Tánh Không, Quang Minh, Và Năng Lực  

Nguyễn Thế Đăng

 
hinh phat 1

Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này: Như Lai, Như Lai tánh, Như Lai tạng, Đại Niết bàn, Pháp thân, thân thân kim cương, giải thoát, Ma ha Bát nhã, thường trụ, Thường Lạc Ngã Tịnh… Phật tánh ấy cũng là bản tâm, bản tánh, bản tánh của tâm… của tất cả chúng sanh. Kinh lặp lại nhiều lần: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”.

 

Phật tánhtánh Không

“Thiện nam tử! Phật tánh không sanh, không diệt, không đi, không đến; chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại; chẳng phải do nhân làm ra, chẳng phải không do nhân làm ra; chẳng phải làm, chẳng phải người làm (tác giả); chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng; chẳng phải có danh, chẳng phải không có danh; chẳng phải danh, chẳng phải sắc; chẳng phải dài, chẳng phải ngắn; chẳng phải chỗ nắm giữ của uẩn, giới, nhập. Thế nên gọi là thường.

Thiện nam tử! Phật tánh tức là Như Lai. Như Lai tức là Pháp. Pháp tức là thường. Thiện nam tử! Thường tức là Như Lai.

Thiện nam tử! Tất cả các pháp hữu vi đều là vô thường. Hư khôngvô vi thế nên là thường. Phật tánhvô vi, thế nên là thường. Hư không tức là Phật tánh. Phật tánh tức là Như Lai. Như Lai tức là vô vi. Vô vi tức là thường. Thường tức là Pháp” (Phẩm Thánh Hạnh).

Phật tánhtánh Không, không sanh không diệt, không đến không đi, chẳng phải mỗi và mọi sự vật. Tánh Khôngvô tự tánh và mọi sự cũng hữu vi, vô tự tánh nên tánh Không là nền tảng vô tự tánh của tất cả mọi sự. Như thế Phật tánh cũng là nền tảng vô tự tánh của tất cả mọi sự.

Kinh nói về tánh Không của tất cả các pháp như sau:

“Phật bảo: Thiện nam tử! Tất cả các pháp, tánh vốn tự Không. Vì sao thế? Tất cả các pháp bản tánh bất khả đắc vậy.

Thiện nam tử! Tánh của sắc không thể đắc. Thế nào là tánh của sắc? Tánh của sắc chẳng phải đất, nước, lửa, gió, cũng chẳng lìa khỏi đất, nước, lửa, gió; chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, cũng chẳng lìa ngoài xanh, vàng, đỏ, trắng; chẳng phải có chẳng phải không. Làm sao nói được sắc có tự tánh? Vì tánh chẳng thể đắc cho nên nói là Không. Tất cả các pháp lại cũng như vậy”. (Phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu)

Hư không tức là Phật tánh: hư không ở đây để chỉ tánh Không. Nói hư không hay tánh Không là thường bởi vì nó không bị điều kiện hóa bởi bất cứ cái gì, bất cứ không gian thời gian nào. Tánh Khôngsự giải thoát bổn nhiên, vốn có sẳn. Phật tánh là thường, tánh Không là thường, chữ thường đây để nói lên nghĩa luôn luôn là như vậy, không biến đổi, không có thể khác. Và luôn luôn như vậy, không biến đổi, không có thể khác nghĩa là luôn luôn thường trụ, luôn luôn có mặt.

Phật tánh như là tánh Không luôn luôn có mặt, nghĩa là giải thoát luôn luôn có mặt. Giải thoát ấy là giải thoát khỏi hai mươi lăm cõi hữu:

“Lại nữa, buộc niệm tư duy nghĩa là thế nào? Đó là ba Tam muội: Không tam muội, Vô tướng tam muội, Vô tác tam muội.

Không là đối với hai mươi lăm cõi hữu không thấy cái nào là thật. Vô tác là đối với hai mươi lăm cõi hữu không khởi mong cầu. Vô tướng là không có mười tướng: sắc tướng, thanh tướng, hương tướng, vị tướng, xúc tướng, sanh tướng, trụ tướng, diệt tướng, nam tướng, nữ tướng. Tu tập ba tam muội ấy, gọi là Bồ tát buộc niệm tư duy”. (Phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương).

Trong tánh Không, không có hai mươi lăm cõi hữu, đó là giải thoát. Kinh nói nhiều lần thí dụ, “Không thể đóng cọc gắn vào hư không được”; hai mươi lăm cõi hữu không thể bám gắn vào hư không được.

Phật tánhtánh Không, vì thế Phật tánh vốn là giải thoát, luôn luôn thanh tịnh:

“Phật tánh chúng sanh không phải nhờ nơi văn tự rồi sau mới thanh tịnh. Vì sao thế? Vì Phật tánh vốn thanh tịnh. Tuy ở trong năm ấm, sáu nhập, mười tám giới nhưng chẳng đồng với năm ấm, sáu nhập, mười tám giới. Thế nên chúng sanh phải nên quy y Phật tánh ấy” (Phẩm Như Lai tánh)

 

Nhưng tánh Không chẳng phải là không có gì cả, một cái không trơ trụi, không có sự sống, như một cái chết tuyệt đối. Phẩm Bồ tát Sư Tử Hống, đức Phật giảng:

“Thiện nam tử! Phật tánh đó gọi là Đệ nhất nghĩa Không, đệ nhất nghĩa không gọi là Trí Huệ.

Nói là Không là chẳng thấy không và bất không, thường và vô thường, khổ và lạc, ngã và vô ngã. Không là tất cả sanh tử. Bất KhôngĐại Niết bàn. Cho đến vô ngã tức là sanh tử, ngã là Đại Niết bàn.

Thấy tất cả là Không mà chẳng thấy Bất Không thì chẳng gọi là Trung đạo. Cho đến thấy tất cả là vô ngã mà chẳng thấy ngã thì chẳng gọi là Trung đạo. Trung đạo gọi là Phật tánh. Vì nghĩa này nên Phật tánhthường hằng, không có đổi khác, bởi vô minh che đậy nên chúng sanh không thể thấy được.

Hàng Thanh Văn, Duyên Giác thấy tất cả là Không mà chẳng thấy Bất Không, cho đến thấy tất cả là vô ngã mà không thấy ngã (chân ngã), do đây nên chẳng đắc Đệ nhất nghĩa Không. Vì chẳng đắc Đệ nhất nghĩa Không nên chẳng hành Trung đạo. Vì không có Trung đạo nên chẳng thấy Phật tánh”.

Phật tánh là Không mà Bất Không, đây là Trung đạo. Hành KhôngBất Không, tức là hành Trung đạo, thì thấy được Phật tánh KhôngBất không.

“Không là tất cả sanh tử”, đây là con đường giải thoát, không còn sanh tử của bậc Thanh VănDuyên Giác. Bồ tát thì vượt khỏi cái Không, vô thường, khổ, vô ngã, để đạt đến Không – Bất Không, tức là Đại Niết bàn, hay Phật tánh Trung đạo. Trung đạo KhôngBất Không này về sau được gọi là Chân Không - Diệu Hữu theo các nhà Đại thừa.

 

Phật tánh là ánh sáng

“Bấy giờ đức Thế Tôn, đại bi tỏa nơi tâm, rõ biết mỗi mỗi tâm niệm của đại chúng, muốn tùy thuận để đại chúng được lợi ích rốt ráo, liền từ chỗ nằm ngồi dậy, ngồi kiết già, sắc mặt vui tươi sáng chói như vàng ròng, khuôn mặt đoan nghiêm như vầng trăng tròn, hình dung thanh tịnh không một chút bợn nhơ, phóng ánh sáng lớn đầy khắp hư không. Ánh sáng ấy sáng hơn trăm ngàn mặt trời, chiếu khắp các cõi Phật mười phương thế giới, ban đuốc sáng đại trí cho chúng sanh, khiến họ được diệt vô minh đen tối, khiến trăm ngàn ức vô số chúng sanh ở yên không thối thất tâm Bồ đề.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn tâm không chút lay động, như sư tử vương, dùng ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp mà trang nghiêm nơi thân. Tất cả những lỗ chân lông trên thân, mỗi một lỗ chân lông đều hiện ra một hoa sen. Các hoa sen ấy vi diệu, mỗi hoa có ngàn cánh, thuần màu vàng ròng, cuống bằng lưu ly, nhụy bằng kim cương, đài bằng ngọc mai khôi, hình lớn tròn như bánh xe. Những hoa sen ấy phóng ra ánh sáng nhiều màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, tía và màu pha lê. Các ánh sáng ấy chiếu suốt đến địa ngục A tỳ và các đại địa ngục, chúng sanh đang bị khổ đốt, nấu, đâm, chém, lột da… gặp được ánh sáng này đều được hết khổ, an ổn, mát mẻ. Trong ánh sáng ấy lại tuyên nói tạng bí mật của Như Lai rằng: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.

Tất cả sáu cõi đều được lợi lạc như vậy” (Phẩm Thị Hiện Bệnh).

Phật tánhNhư Lai, và Như Lai phóng ánh sáng tức là Phật tánh phóng ánh sáng. Ánh sáng của Phật tánh bao hàm tạng bí mật, nghĩa rốt ráo của thế giới chúng sanh là “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”.

Tất cả thế giới, chúng sanh đều ở trong ánh sáng Phật tánh, sinh hoạt, sống chết trong ánh sáng Phật tánh. Ánh sáng Phật tánh là “tạng bí mật của Như Lai”, chính ánh sáng ấy tuyên thuyết “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Tất cả các cõi, từ thấp đến cao, từ phàm đến thánh, các cấp độ ấy được phân chia theo sự thấy biết và sống trong ánh sáng Phật tánh ít hay nhiều, cạn hay sâu.

Ánh sáng là thường trụ, chính là Phật, là Đại Niết bàn:

“Bồ tát Văn Thù Sư Lợi nói: Bạch Thế Tôn! Ánh sáng này gọi là Trí huệ. Trí huệ tức là thường trụ, pháp thường trụ thì không có nhân duyên.

Ánh sáng này gọi là Đại Niết bàn. Đại Niết bàn thì gọi là thường trụ, pháp thường trụ thì không do nhân duyên.

Ánh sáng này chính là Như Lai. Như Lai tức là thường trụ, pháp thường trụ không từ nhân duyên.

Ánh sáng này là Đại Từ Đại Bi, đại từ bi gọi là thường trụ, pháp thường trụ chẳng phải từ nhân duyên.

Ánh sáng này tức là nhớ nghĩ Phật. Nhớ nghĩ Phật gọi là thường trụ, pháp thường trụ thì không do nhân duyên” (Phẩm Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu). 

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn có rất nhiều thí dụ nói lên ánh sáng Phật tánh: ánh sáng hạt châu của người đại lực sĩ, ánh sáng viên kim cương hạt minh châu, ánh sáng của mặt trăng mặt trời, Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu, Phật Mãn Nguyệt Quang… trong Phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên, kết thúc ba bài pháp cuối cùng của đức Phật, ngài nói:

“Do đây nên ngày nay ta an trụ Thường Tịch Diệt Quang gọi là Đại Niết Bàn.”

Đại Niết bàn tức là Thường Tịch Diệt Quang, và Đại Niết bàn để chỉ cho Phật tánh trong suốt bộ kinh. Phật tánhThường Tịch Diệt Quang bao trùm vũ trụ và tất cả chúng sanh.

 

Phật tánhnăng lực của Phật, Phật lực

Phật tánh Không chỉ là tánh Không, Phật tánh ấy còn là ánh sáng và ánh sáng ấy phóng chiếu khắp các cõi, đem đến lợi lạc cho tất cả muôn loài. Ánh sáng Phật tánh là ánh sáng hoạt động, đầy năng lực.

Như Laiđại từ bi, xem chúng sanh như con một, như La Hầu La. Đại từ bi ấy là sự hoạt động cứu độ chúng sanh, sự hoạt động của đại từ bi nơi thế giớiHóa thân:

“Thiện nam tử! Phật pháp cũng vậy, rất sâu khó hiểu. Như Lai thật khôngưu bi khổ não, mà ở nơi chúng sanh khởi đại từ bi, thị hiệnưu bi, xem chúng sanh như con một, như La Hầu La.

Ca Diếp! Tánh Như Lai thanh tịnh vô nhiễm, giống như hóa thân, chỗ nào mà có ưu bi khổ não? Nếu nói Như Lai không có ưu bi thì làm sao có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, rộng giảng Phật pháp? Nếu nói là không có ưu bi thì sao lại nói xem chúng sanh bình đẳng đều như La Hầu La?

Thiện nam tử! Ví như nhà huyễn thuật, dầu hóa ra đủ thứ cung điện, sát sanh, nuôi dưỡng, trói buộc, thả ra, cho đến hóa làm vàng bạc, lưu ly, rừng rậm, cây cối… đều không có thật tánh.

Cũng vậy, Như Lai tùy thuận thế gianthị hiện ưu bi nhưng không có chân thật. Như Lai đã chứng nhập Đại Niết bàn, làm sao lại có ưu bi khổ não? Thế nên Như Lai gọi là Vô ngại trí, thị hiện huyễn hóa tùy thuận theo thế gian”. (Phẩm Như Lai tánh - Phẩm Điểu Dụ).

Năng lực hoạt động của Phật tánhnăng lực của đại từ bi, xem tất cả chúng sanh như con một, vì đại từ bi mà “thị hiện, hóa hiện” tùy thuận thế gian để cứu độ chúng sanh.

Năng lực của Phật thì không có nhân duyên, đó là năng lực của Phật tánh, của pháp tánh, bởi vì Phật tánh hay pháp tánh thì vô trụ, không có nhân duyên, và năng lực ấy là đại từ đại bi:

“Giới của Như Lai không có nhân duyên, vì thế nên được gọi là giới rốt ráo. Vì nghĩa này nên Bồ tát tuy bị các chúng sanh xấu ác làm tổn hại vẫn chẳng sanh mê mờ, sân giận. Thế nên Như Lai được gọi là thành tựu giữ giới rốt ráo.

Thiện nam tử! Thuở trước có lần ta cùng Xá Lợi Phất và năm trăm đệ tử đồng ở trong thành Chiêm Bà nước Ma Dà Đà. Có thợ săn đuổi theo một con bồ câu, nó sợ hãi bay vào núp trong cái bóng của Xá Lợi Phất nhưng vẫn còn run sợ. Bay đến trong cái bóng của ta thì thân tâm an ổn hết kinh sợ. Thế nên hãy biết Thế Tôn Như Lai giữ giới rốt ráo, cho đến bóng của thân còn có năng lực như vậy”. (Phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).

 

Phật tánhtánh không hai

Phật tánhthật tánh, và thật tánhtánh không hai.

“Nếu nói vô minhnhân duyên sanh ra các hành, người phàm phu nghe liền sanh tưởng có hai pháp: minh và vô minh. Người trí rõ biết tánh ấy không có hai. Tánh không hai này tức là thật tánh.

Nếu nói Mười Thiện, mười ác, có thể tạo tác, không thể tạo tác, đường thiện lành, đường xấu ác, pháp thiện, pháp ác, người phàm phu nghe liền cho là có hai. Người trí rõ biết tánh ấy không có hai. Tánh không hai này tức là thật tánh.

Thiện nam tử! Minh cùng vô minh cũng lại như vậy. Nếu chung với phiền não thì gọi là vô minh, nếu chung với tất cả pháp thiện lành thì gọi là minh. Thế nên ta nói không có hai tướng. Vì thế trước kia ta nói bò cái ăn cỏ Phì nhị ở núi Tuyết thì sanh thuần chất đề hồ. Phật tánh cũng vậy, là tánh không hai. Do phiền não che đậy nên chúng sanh chẳng thấy Phật tánh” (Phẩm Như Lai tánh).

Phật tánhtánh không hai của vô minh và minh, tức là của sanh tửNiết bàn. Phật tánh không hai là bản tánh của sanh tửNiết bàn. Phật tánh không hai này kinh gọi là Đại Niết bàn thay vì là Niết bàn như bình thường.

Phật tánh hay Đại Niết bàn không chỉ là tánh không hai của tất cả sanh tửNiết bàn. Phật tánh hay Đại Niết bàn còn là tánh không hai của Ba Thân, Pháp thân, Báo thân, Hóa thân. Nói cách khác, trong Phật tánh hay Đại Niết bàn, ba thân Pháp thân, Báo thân, Hóa thân, hay tánh Không, quang minh, năng lực là Một. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4156)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2258)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3418)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4093)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3863)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2811)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3288)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3420)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4469)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3795)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4670)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 3951)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 2941)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3697)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3826)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 2998)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3545)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4385)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3651)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2171)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2544)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 2966)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2649)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4540)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4865)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2779)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5134)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2789)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3195)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4313)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4854)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4605)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3165)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4490)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4211)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6072)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3458)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 3967)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 5941)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5348)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 3965)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 32609)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3116)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4676)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 2999)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3744)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3478)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6475)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2717)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3176)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4473)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3369)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7224)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4413)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4457)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7130)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2891)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12008)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3888)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3711)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant