Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật GiáoVấn Đề Kỳ Thị Chủng Tộc, Giai Cấp, Giới Tính

23 Tháng Giêng 202119:25(Xem: 3182)
Phật Giáo Và Vấn Đề Kỳ Thị Chủng Tộc, Giai Cấp, Giới Tính

Phật GiáoVấn Đề Kỳ Thị Chủng Tộc, Giai Cấp, Giới Tính

 

Huỳnh Kim Quang

 

Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết. Có lẽ một phần là do sự văn minh tiến bộ của xã hội đã giúp mở rộng nhận thứctâm thức con người đối với những vấn đề xã hội như thế. Trong đó không thể không nói đến nhiều đóng góp của các phong trào dân quyền, nhân quyền, bình quyền, nữ quyền, v.v… trên thế giới từ vài thế kỷ qua đã xây dựng những nền tảng về lý thuyếtthực hành cho công cuộc đấu tranh đòi quyền sống và bình đẳng cho từng cá nhân trong cộng đồng xã hội.

Tuy nhiên, ở đời hễ có đấu tranh cho quyền bình đẳng thì tất nhiên cũng đã có thực trạng bất công và kỳ thị xảy ra. Các hiện tượng tiêu cực này không phải chỉ mới xuất hiện vài trăm năm mà đã có từ hàng ngàn năm trước. 

Thời đại của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni Buddha) cách nay hơn hai mươi sáu thế kỷ -- thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch – tại Ấn Độ, nơi Đức Phật đản sinh, là một xã hội phân biệt và kỳ thị giai cấp và giới tính rất nặng nề. Trong các Kinh Luật Luận của Phật Giáo còn lưu truyền ngày nay cho thấy xã hội Ấn Độ thời Phật bị phân chia ra làm 4 giai cấp, theo thứ tự từ trên xuống dưới: Tăng lữ [Brahmins – giới tăng lữ Đạo Bà la môn], vua chúa quan lại [Kshatriyas – Sát đế lợi], nghệ sĩ thương nhân điền chủ [Vaishyas – Phệ xá], và dân nghèo lao động [Shudras – Thủ đà la]. Sự đối xử phân biệt và kỳ thị trầm trọng đến mức những người ở giai cấp thấp nhất trong xã hội bị đối xử như kẻ nô lệ không hơn không kém.

Khi Đức Phật đem giáo pháp giác ngộgiải thoát của ngài truyền bá trong xã hộituyên bố tất cả mọi chúng sinh đều bình đẳng như nhau không phân biệt giai cấp thì đó là một cuộc cách mạng xã hội rộng lớn chưa từng có tại Ấn Độ nói riêng và trên thế giới này nói chung. Thông điệp bình đẳng của Đức Phật cho đến nay vẫn còn y nguyên giá trị thù thắng cho nhân loại noi theo. 

Nhưng, vấn đề được đặt ra là, vào thời đại của Đức Phật khi mà nhân loại vẫn còn chìm đắm trong tư duy phân biệt kỳ thị chủng tộc, giai cấp và giới tính và hành xử bất bình đẳng trong xã hội, thì Đức Phật đã dựa vào động lực nào hay yếu tố nào để thể hiện đời sống bình đẳngchống lại những phân biệt đối xử?

 

Hai bánh của cỗ xe bình đẳng trong Phật Giáo

 

Có hai yếu tố để có thể hiểu được quan điểm của Đức Phật đối với vấn đề phân biệt và kỳ thị chủng tộc, giai cấp và giới tính. Đó là yếu tố trí tuệyếu tố từ bi.

Trí tuệĐức Phật chứng đắc nhìn thấu suốt vào bản chất của tất cả các pháp đều do duyên mà sinh và diệt. Các pháp thực chất không có bất cứ một định tánh nào và do đó không có bất cứ một tự ngã nào tồn tại thực sự để từ đó làm nền tảng cho quan điểm giai cấp như một thực hữu câu sinh hay bẩm sinh. Vì vậy, giai cấpquan điểm được xây dựng trên tâm phân biệt cố chấp cho rằng con người có tự ngã thực sự, hay được sinh ra từ những chỗ khác nhau trên thân thể của Phạm Thiên - theo Kinh Vệ Đà của Bà La Môn Giáo, hoặc khởi lên tự mãn, tự đắc về giai cấp của mình cho mình là thành phần thượng đẳng trong xã hội

Trong Kinh Ambattha của Trường Bộ Kinh (Dìgha Nikàya) do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch, Đức Phật dạy rằng:

“Này Ambattha, một vị đã thành tựu vô thượng trí đức không có luận nghị đến sự thọ sanh, không có luận nghị đến giai cấp hay không có luận nghị đến ngã mạn với lời nói: “Ngươi bằng ta hay ngươi không bằng ta.” Chỗ nào nói đến cưới hỏi hay rước dâu đi, hay cả hai, chỗ đó mới có luận nghị đến sự thọ sanh, luận nghị đến giai cấp hay luận nghị đến ngã mạn với lời nói: “Ngươi bằng ta hay không bằng ta.”

“Này Ambattha, những ai còn chấp trước lý thuyết thọ sanh [ghi chú của người viết: tức là sự thọ sanh dựa vào vị trí trên thân của Phạm Thiên], còn chấp trước lý thuyết giai cấp, còn chấp trước lý thuyết kiêu mạn, hoặc còn chấp trước cưới hỏi rước dâu, những người ấy còn rất xa sự thành tựu vô thượng trí đức. Này Ambattha, không chấp trước lý thuyết thọ sanh, không chấp trước lý thuyết giai cấp, không chấp trước lý thuyết kiêu mạn, không chấp trước cưới hỏi, đưa dâu, người ấy tức chứng ngộ vô thượng trí đức.”

Khi chứng đắc căn bản trí thể nhập bản thể vô sai biệt, Đức Phật nhìn thấy bản tính bình đẳng tuyệt đối của tất cả chúng sinh và ngài đã khởi tâm từ bi để cứu khổ muôn loài. Trong Kinh Lăng Già (Laṅkāvatāra Sutra) bản dịch Hán văn của Cầu Na Bạt Đà La (Gunavarma), Đức Phật dạy rằng:

 

Thế gian ly sanh diệt

Do như hư không hoa

Trí bất đắc hữu vô

Nhi hưng đại bi tâm

 

Thiền Sư Thích Duy Lực dịch lời Việt như sau:

 

Thế gian lìa sanh diệt

Như hoa đốm trên không.

Trí chẳng trụ hữu, vô,

khởi tâm đại bi.

 

Đức Phậtlòng từ bi vô lượng đối với tất cả mọi chúng sinh chứ không chỉ với con người. Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahāparinirvāṇa Sūtra), Đức Phật dạy rằng, “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.” Ngài dạy rằng tất cả chúng sinh đều có khả năng thành tựu mục tiêu tối thượng giác ngộgiải thoát như nhau. Vì vậy, tất cả chúng sinh đều bình đẳng. Đức Phật tôn trọng sự sống và phẩm giá của mọi người như nhau. Ngài dạy các đệ tử không được não hại người khác và không được giết hại sinh mạng của tất cả chúng sinh. Chính lòng từ bi bao la của Đức Phật đã xô ngã bức tường phân biệt giai cấp của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ.

Trong Kinh Từ Bi (Metta Sutta) thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikaya), do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch, Đức Phật dạy thực hành lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh, không phân biệt các loài.

 

“148. Mong rằng không có ai,

Lường gạt lừa dối ai,

Không có ai khinh mạn,

Tại bất cứ chỗ nào.

Không vì giận hờn nhau,

Không vì tưởng chống đối.

Lại có người mong muốn,

Làm đau khổ cho nhau.

 

149. Như tấm lòng người mẹ,

Đối với con của mình,

Trọn đời lo che chở,

Con độc nhất mình sanh.

Cũng vậy, đối tất cả

Các hữu tình chúng sanh,

Hãy tu tập tâm ý,

Không hạn lượng rộng lớn.”

 

Phật dạy về phân biệt giai cấp

 

Thời đại Đức Phật, giai cấp Tăng Lữ Bà La Môn đã dựa vào Kinh Vệ Đà nói họ được sinh từ miệng của Phạm Thiên (Brahma) nên nắm độc quyền về tư tưởng, tôn giáo, lễ nghi tế tự trong xã hội Ấn Độ. Họ tự cho mình thuộc giai cấp thượng đẳng nên các giai cấp thấp hơn phải tôn kínhtùng phục họ.

Khi Đức Phật truyền bá giáo pháp bình đẳng không phân biệt giai cấp thì tức khắc đã bị giai cấp Tăng Lữ Bà La Môn chống đối và nhiều lần đến tranh luận với Đức Phật về địa vị độc tôn tối thượng của họ.

Đức Phật đã trả lời và khai thị cho họ về quan điểm giai cấp thực rathiên kiến, cố chấp, vì con người sinh ra và thừa tự tất cả những gì mà chính con người đã và đang tạo dựng qua ba nghiệp thân, khẩu và ý. Chính các hành động của con người làm cho họ cao thượng hay thấp hèn, chứ không do bất cứ ai khác ban phát hay quyết định. Nếu người tự cho mình thượng đẳng mà hành động không chân chính, không cao đẹp thì chính hành động đó làm cho họ thấp hèn bị người khác khinh miệt. Ngược lại, những người bình dân nghèo khổ nhưng hành động chân chính, chất trực, cao thượng thì các hành động đó làm cho họ cao quý được người khác quý trọng.

Trong Kinh Kẻ Bần Tiện (Vasalasuttam) trong Tập V của Kinh Tập (Sutta Nipata) thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikaya) do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt, Đức Phật đã dạy cho Bà-la-môn Aggibhàradvàja về giai cấp như sau:

 

116. Người phẫn nộ, hiềm hận,

Ác nhân, gièm pha người,

Ác tà kiến, man trá,

Được biết là bần tiện.

117. Ai ở đây hại vật,

Một sanh, hoặc hai sanh,

Không thương xót hữu tình,

Được biết là bần tiện.

131. Ở đời nói không thật,

Bị si mê che đậy,

Tham cầu chút lợi nhỏ,

Được biết là bần tiện.

132. Ai đề cao tự ngã,

Khi miệt giá trị người,

Hạ mình với tự cao,

Được biết là bần tiện.

136. Bần tiện không vì sanh,

Phạm chí không vì sanh,

Do hành, thành bần tiện,

Do hành, thành Phạm chí.

 

Chữ “hành” được dịch trong bài kệ trên là chỉ cho hành động tạo tác (karma, actions) gồm ý nghĩ, lời nói và hành động của con người. Bản dịch tiếng Anh của Thanissaro Bhikkhu dùng chữ “action” tức là hành động tạo tác.

Khi hành động, con người tạo ra năng lực, mà trong Luận Câu Xá (Abhidharmakośakārikā của Ngài Thế Thân) gọi là vô biểu sắc, một dạng năng lực vô hình; và trong Duy Thức Tông (vijñaptimātravādin) gọi là chủng tử. Từ năng lực này duy trì nhân tạo tác cho đến khi có kết quả thọ nhận.

Chính trong ý nghĩa này, Đức Phật đã xác định sự bình đẳng của mọi chúng sinh và qua đó Ngài cũng bác bỏ chủ trương giai cấp được các Tăng Lữ Bà La Môn dựng lên. 

 

Trường hợp ngài Ưu Ba Ly 

 

Trước hết là trường hợp người thợ cạo tóc Ưu Ba Ly (Upali) được xuất gia trong Tăng Đoàn của Đức Phật.

Ưu Ba Ly sinh ra ở giai cấp thấp nhất trong xã hội Ấn Độ. Ông có cơ thể yếu đuối cho nên cha mẹ ông cho ông làm nghề hớt tóc. Ưu Ba Ly được nhiều người thích, chẳng bao lâu ông đã trở thành thợ hớt tóc cho các thái tử dòng họ Thích Ca.

Khi Ưu Ba Ly được 20 tuổi, Đức Phật trở lại Ca Tỳ La Vệ để thăm phụ thân của ngài. Đức Phật đã được Ưu Ba Ly hớt tóc. Ưu Ba Ly rất hồi hộp nên ông đã đem mẹ của mình theo. Trong lúc hớt tóc, mẹ của Ưu Ba Ly hỏi Đức Phật, “Nghề hớt tóc của Ưu Ba Ly thế nào?” Đức Phật trả lời, “thân thể quá cong.” Ưu Ba Ly liền đứng thẳng người, và đạt được cấp đầu tiên của chánh niệm (sơ thiền). Sau một lúc, mẹ của Ưu Ba Ly lại hỏi, và Đức Phật đã trả lời, “Bây giờ cơ thể quá thẳng.”  Ưu Ba Ly liền buông thả căng thẳngđạt được cấp thứ hai của chánh niệm (nhị thiền). Một lúc sau, mẹ của Ưu Ba Ly lại hỏi, và Đức Phật đã trả lời, “hơi thở hít vào quá nhanh.” Ưu Ba Ly tức thì tập trung vào hơi thở, và đạt được cấp thứ ba của chánh niệm (tam thiền). Một lát sau, mẹ của Ưu Ba Ly lại hỏi, và Đức Phật đã trả lời, “hơi thở ra quá nhanh.” Bây giờ Ưu Ba Ly kiểm soát được tất cả tư duyđạt được cấp thứ tư của chánh niệm (tứ thiền). Đức Phật liền dạy thêm rằng, “Người nào đó nên nhanh chóng lấy con dao khỏi Ưu Ba Ly, ông đã nhập vào cấp thứ tư của chánh niệm, hãy giúp ông để ông không bị té xuống đất!”

Tôn Giả Ưu Ba Ly đã được xuất gia trước bảy vị hoàng tử của dòng họ Thích Ca. Ông ấy trở thành sư huynh thọ giới trước, không bao giờ phạm bất cứ giới nào. Ông thường được Đức Phật nhờ dàn xếp các vụ tranh tụng trong Tăng Già. Sự vô tưnghiêm khắc của Tôn Giả Ưu Ba Ly đã làm cho ông dàn xếp thành công tất cả các vụ tranh tụng. Tôn Giả Ưu Ba Ly cũng góp ý với Đức Phật trong nhiều nghi ngờ về giới luậtnếp sống thiền môn, để Đức Phật dạy nhiều Kinh.

Tôn giả Ưu Ba Ly là vị đệ tử trì giới số một trong những vị đệ tử xuất gia của  Đức Phật. Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, Tôn Giả Ưu Ba Ly đã trùng tuyên Giới Luật trong kỳ kết tập Kinh Điển đầu tiên do Tôn Giả Đại Ca Diếp chủ trì trong mùa an cư đầu tiên sau khi Đức Phật diệt độ.

Ưu Ba Ly sinh ra trong giai cấp Thủ Đà Lagiai cấp thấp nhất trong xã hội. Theo xã hội Ấn Độ thời đó thì Ưu Ba Ly không thể đứng ngang hàng với giới Tăng Lữ Bà La Môn. Nhưng Tôn Giả Ưu Ba Ly đã được đối xử bình đẳng trong Tăng Đoàn của Đức PhậtTăng Đoàn của Phật giống như biển cả bình đẳng có thể dung nạp mọi dòng nước từ sông ngòi giai cấp đổ vào.

 

Nữ giới trong Đạo Phật

 

Vào thời đại của Đức Phật, thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch, người phụ nữ vẫn còn bị đối xử phân biệt và kỳ thị ở khắp nơi. Đức Phật là Người đầu tiên trong lịch sử nhân loại thừa nhận khả năng và vai trò của phụ nữ bình đẳng với nam giới. Trong Tiểu Phẩm (Cullavagga) của Luật Tạng (Vinaya Pitaka), Đức Phật dạy rằng phụ nữ cũng có thể thành đạt sự giác ngộ.

Trong Kinh Mạt Lỵ Phu Nhân (Mallikā Sutta) thuộc Kinh Tạng Pali, qua bản dịch Anh Ngữ của Bhikkhu Sujato, khi Vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) của Nước Kosala (Kiều Tát La) mà Thủ Đô là Thành Xá Vệ (Sāvatthī) phàn nàn với Đức Phật về việc Hoàng Hậu Mạt Lỵ sinh con gái thay vì con trai, Đức Phật đã tán dương Hoàng Hậu Mạt Lợi với Vua Ba Tư Nặc rằng:

“Tốt, một số phụ nữ thì tốt hơn đàn ông. 

Hỡi nhà lãnh đạo quần chúng

Trí tuệđức hạnh,

một người vợ hy sinh là người đã tôn kính mẹ chồng.

Và khi bà ấy có con trai

anh ấy trở thành một anh hùng, hỡi vị chúa tể của quốc gia.

Con trai cùa người phụ nữ diễm phúc như thế

thậm chí cũng có thể trị vì đất nước.”

Liên quan đến Vua Ba Tư Nặc và Mạc Lỵ Phu Nhân, trong Phần Giới Thiệu Kinh Thắng Man (śrīmālādevī-sūtra), Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ cho biết Thắng Man Phu Nhân trong Kinh Thắng Man chính là công chúa con của Vua Ba Tư Nặc và Mạc Lỵ Phu Nhân

“Về tiểu sử của Thắng Man Phu nhân, hiện chúng ta biết rất ít, ngoại trừ những điểm chính như được nói trong phần mở đầu của kinh. Các tài liệu trong điển tích Phật giáo Trung hoa hiện có cũng không nói gì nhiều hơn những điều mà kinh này nói. Như vậy, chúng ta biết một cách vắn tắt về thân thế của Phu nhân như sau: Phu nhân là con gái của vua Ba-tư-nặc và Mạt-lị Phu nhân, là vương phi của vua Hữu Xứng.”

Trong bài giới thiệu này, Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ cũng đã nói đến sự bình đẳng nam nữ trong Phật Pháp.

“Và đây cũng là một biến cố vĩ đại, khi Thắng Man Phu nhân phát khởi chí nguyện Đại thừa. Chí nguyện ấy là mong học hỏithấu triệt vô lượng vô biên Phật pháp; và không chỉ có thế, chí nguyện của Phu nhân còn hướng đến những thực hành cao cả, tự mình gánh vác trách nhiệm lớn lao, sẵn sàng xả bỏ thân mạng vì sự tồn tại của Chính pháp và vì ích lợi của tất cả chúng sinh. Nơi đây không còn giới hạn vấn đề mà người ta nói là thường tình nhi nữ hay chí khí trượng phu nữa.”

Năm năm sau ngày Đức Phật giác ngộ và cũng là 5 năm sau ngày Đức Phật thành lập Tăng Đoàn Tỳ Kheo, Đức Phật đã chấp nhận cho phụ nữ xuất giathọ trì Tỳ Kheo Ni Giới, với vị Tỳ Kheo Ni đầu tiên là Ngài Ma Ha Ba Xà Ba Đề Kiều Đàm Di (Mahapajapati Gotami). Từ đó mà Ni Đoàn của Đức Phật hiện diện và phát triển với vô số vị Tỳ Kheo Ni chứng quả A La Hán giống như chư vị Tỳ Kheo Tăng. 

Trong số chư vị Tỳ Kheo Ni đắc đạo thời Đức Phật, ngoài Ngài Ma Ha Ba Xà Ba Đề Kiều Đàm DiTỳ Kheo Ni Gia Du Đà La (Yasodharā), còn có chư vị Tỳ Kheo Ni khác gồm: Tỳ Kheo Ni Khemā, Tỳ Kheo Ni Uppalavaṇṇā (Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc), Tỳ Kheo Ni Paṭācārā, Tỳ Kheo Ni Dhammadinnā, Tỳ Kheo Ni Nandā, Tỳ Kheo Ni Soṇā, Tỳ Kheo Ni Sakulā, Tỳ Kheo Ni Bhaddā Kuṇḍalakesā, Tỳ Kheo Ni Bhaddā Kāpilānī, Tỳ Kheo Ni Bhaddakaccānā, Tỳ Kheo Ni Kisāgotamī, Tỳ Kheo Ni Siṅgālakamātā, Tỳ Kheo Ni Siṅgālakamātā, v.v…, theo Tương Ưng Bộ Kinh (Aṅguttara Nikāya).

Trong một hội nghị về Phụ Nữ Trong Phật Giáo tại Đại Học Hamburg của Đức vào năm 2007, Đức Đạt Lai Lạt Ma Đời Thứ 14 phát biểu về nữ giới như sau:

“Chiến tranh theo truyền thống được thực hiện chủ yếu bởi nam giới bởi vì họ có vẻ được huấn luyện về thể chất tốt hơn cho hành động tấn công. Phụ nữ, ngược lại, có khuynh hướng nhạy bén hơn đối với sự bất anđau khổ của người khác. Dù nam giới và nữ giới có cùng các khả năng đối với sự tấn công và tấm lòng ấm áp như nhau, họ khác nhau trong cách mà cả hai thể hiện dễ dàng hơn. Vì thế, nếu đại đa số lãnh đạo thế giớiphụ nữ, có lẽ sẽ ít nguy cơ chiến tranh và nhiều hợp tác hơn trên cơ bản của sự quan tâm toàn cầu. Tôi cảm thông với những người ủng hộ nữ quyền, nhưng họ không nên chỉ la ó. Họ phải thực hiện các nỗ lực để tạo ra những đóng góp tích cực cho xã hội.”

Còn vấn đề giới tính thì Đạo Phậtquan điểm như thế nào?

 

Giới tính trong Đạo Phật

 

Đây là vấn đề rất tế nhị và vẫn còn nhiều tranh luận tiếp diễn. Tuy nhiên, có điều rõ ràngĐạo Phật với lòng từ bi vô lượng không hề kỳ thị và chống đối đối với những người đồng tính nam và nữ, lưỡng tính, và chuyển giới. 

Trong bài viết vào năm 1998 của Steve Peskind, người đã qua đời vì bệnh AIDS vào năm 2004 và được đăng trên trang mạng www.lionsoars.com vào 2009, tác giả Peskind có nhắc lại câu nói của Đức Đạt Lai Lạt Ma Đời Thứ 14 được tạp chí OUT trích thuật nói rằng, “Nếu một người đến với tôi và hỏi [về đạo đức của hành động đồng tính luyến ái] điều đó có ổn hay không, tôi trước hết sẽ hỏi bạn có đang giữ lời thề tôn giáo nào không. Và câu hỏi kế tiếp của tôi là, quan điểm của người bạn đồng hành của bạn là gì? Nếu bạn đồng ý cả hai, thì tôi nghĩ là tôi sẽ nói rằng, nếu hai người đàn ông hay hai người phụ nữ đồng ý tự nguyện để có sự thỏa mãn với nhau mà không có ý làm tổn hại đến những người khác, thì điều đó là ổn.”

Trong bài nghiên cứu công phu của Thầy Thích Chúc Phú có tựa đề “Quan Điểm Của Phật Giáo Về Vấn Đề Chuyển Giới (Transgenderism)” được đăng trên www.thuvienhoasen.org vào ngày 19 tháng 12 năm 2017, Thầy Chúc Phú đã nêu ra một số trường hợp chuyển giới trong Kinh TạngLuật Tạngđồng thời cũng nêu ra quan điểm và cách giải quyết của Đức Phật đối với các trường hợp đặc biệt này. Xin trích lại một số nhận địnhkết luận của Thầy Chúc Phú trong bài viết nói trên như sau:

“Từ đoạn văn nêu trên của luật tạng, đã bộc lộ rõ ràng quan điểm của Đức Phật đối với vấn đề chuyển giới, thể hiện cụ thể qua những chủ điểm quan trọng sau.

Thứ nhất, khi một vị tỳ-kheo Tăng, vì một lý do đặc thù nào đó mà chuyển thành tỳ-kheo Ni và ngược lại, thì được Đức Phật cho phép sống chung với đoàn thể Tăng, Ni tương ứng. Điều này dẫn đến một kết luận phát sinh là, một sự chuyển giới hợp pháp sẽ được Đức Phật chấp nhận.

Thứ hai, sau khi chuyển giới, vị ấy vẫn được giữ nguyên thầy tế độ, giới phẩm, thâm niên hạ lạp…. Điều đó có ý nghĩa rằng, một cá thể sau khi chuyển giới, vẫn được đảm bảo các phẩm vị cơ bản của con người theo đặc thù phái tính. Nói cách khác, cần tôn trọng và đối xử bình đẳng đối với một người chuyển giới.

Thứ ba, mặc dù được chuyển giới, nhưng tội lỗi vẫn được thẩm xét theo đặc thù phái tính và căn cứ vào thời điểm chuyển giới. Trong thực tiễn đời thường, điều này có nghĩa là, tuy có sự chuyển đổi giới tính nhưng phải đảm bảo trách nhiệm cá nhân đối với những hành vi mà mình đã gây tạo, trước hoặc sau khi chuyển giới.

Như vậy, sự kiện một chúng sanh chuyển đổi giới tính là sự thực lịch sử, đươc bảo chứng từ cơ sở luật tạng khả tín, và được chính Đức Phật có những quan tâm, hướng dẫn cụ thể.

4.  Kết luận

Thành tựu của các ngành khoa học ở Ấn Độ cổ đại được lưu giữ trong những cổ thư Upaniṣads và kinh văn Phật giáo đã xác tín rằng, giới tính con người tuy được định hình trong khi mang thai nhưng thực chất có những biến đổi linh hoạt.

Theo Vi diệu pháp (abhidhamma), giới tính con người được căn cứ vào sắc nam (purisabhāvarūpa) và sắc nữ (iṭṭhibhāvarūpa) thuộc sắc pháp (rūpadhamma). Và đã là sắc pháp, tất sẽ chịu sự tác động của nguyên lý vô thường. Chính vì vậy, khi sắc pháp biến đổi, thì giới tính của con người có khả năng thay đổi theo.

Sự biến đổi của sắc nam và sắc nữ trong khi mang thai và ngay cả lúc trưởng thành đã tạo nên những trường hợp đặc thù về giới tính. Tuy phần lớn những trường hợp này không được xuất giathọ giới; mặc dù vậy, vẫn có vài trường hợp biến đổi giới tính sau khi ổn định sinh hoạt trong đời sống tăng-già.

Từ những lời dạy của Đức Phật trong luật tạng liên quan đến việc chuyển đổi giới tính của hàng xuất gia, đã khẳng định rằng, Đức Phật cho phép việc chuyển giới (transgender), và bảo đảm các quyền lợi về nhân thân cũng như trách nhiệm của cá thể này trong những mối quan hệ tương ứng.”

Độc giả có thể đọc nguyên văn bài viết của Thầy Chúc Phú ở đây: https://thuvienhoasen.org/a29059/quan-diem-cua-phat-giao-ve-van-de-chuyen-gioi-transgenderism-

         Tóm lại, những vấn đề này, đặc biệt vấn đề giới tính, vẫn còn nhiều tranh luận chưa thống nhất. Đức Đạt Lai Lạt Ma Đời Thứ 14, theo bài viết của tác giả Steve Peskind được nói ở trên, cũng đã cởi mở và khuyến khích các thảo luận đối với vấn đề giới tính, nhưng ngài không chấp nhận thái độ bạo động đối với vấn đề này. Ngài cũng cho biết rằng Ngài không có thẩm quyền để thay đổi Giới Luật

 PHAT GIAO VA VAN DE KY THI CHUNG TOC 01

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1613)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1528)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1479)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1059)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1450)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1387)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1304)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1351)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1682)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1891)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1407)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1074)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1405)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1971)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1445)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1534)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1366)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2824)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1356)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1395)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1699)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1650)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1609)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1453)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2616)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1597)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1594)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1392)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1410)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1593)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1529)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1420)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1395)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1491)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2170)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1525)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1472)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1588)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1813)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1502)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1363)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1640)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1380)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1668)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2342)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1439)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1927)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1654)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1725)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1596)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1921)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1647)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1407)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1699)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1554)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1514)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1305)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1229)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1271)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1505)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant