Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Định Hình Con Đường Tu Chứng Trong Kinh Pháp Hoa

01 Tháng Hai 202107:20(Xem: 4096)
Định Hình Con Đường Tu Chứng Trong Kinh Pháp Hoa

Định Hình Con Đường Tu Chứng Trong Kinh Pháp Hoa

 

Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy. Bước thêm bước nữa, để hiểu Phật tánh là tánh giác ngộ. Tánh giải thoát. Tánh không còn ô nhiễm, vô minh. Cái tánh mà trong Kinh Pháp Hoa, Phật nói:

"Đức Phật vì một Phật sự lớn mà thị hiện nơi đời, đó là Khai, Thị chúng sanh - Ngộ, Nhập Phật tri kiến. Bốn chữ: Khai, Thị, Ngộ, Nhập là con đường độ sinh của Phật, mà cũng là chỗ ách yếu cho những ai tinh tấn tu trì để giác ngộ thành Phật.

Hai chữ Khai, Thị là của Phật. Còn hai chữ Ngộ, Nhập là của chúng ta. Phật vì lòng Từ Bi, Trí Tuệphương tiện quyền xảo mở bày dưới mọi phương thức, hành động, giáo dục mà không đóng kín cửa con đường giác ngộ. Con đường giác ngộ rộng thênh thang. Bầu trời giác ngộ không có ngần mé, giới hạn. Giáo Pháp của Phật là giáo pháp thật chứng, là giáo pháp công truyền cho những ai đến để thấy. Cánh cửa thật tu thật chứng đã mở cho tất cả mọi căn cơ, trình độ. Cánh cửa vô sanh, bất tử đã hiển bày. Đức Phật đã mở bày cho chúng ta qua giáo pháp Tứ Thánh Đế, Bát Thánh Đạo... Để từ đó, chúng ta:

Khai: Phật mở rộng tất cả các pháp môn khai, quyền, hiển, thật... Mở ra con đường tu tập chấm dứt khổ đau. Mở ra con đường tu chứng thánh quả Vô Thượng Bồ Đề. Mở ra giáo pháp Tri kiến Như Lai, Phật thừa thánh đạo.

Thị: Phật chỉ cho chúng ta thấy đây là khổ các con phải thấy. Mà thấy thì chúng ta phải đoạn tận nguyên nhân của Khổ - Tập. Sau khi thấy Khổ là hậu quả của nhân tức Tập, mà tiến lên một bước nữa là Diệt và Đạo: Tu để chứng. Như vậy, Phật chỉ cho chúng ta thấy một cách rõ ràng Khổ Tậpnhân quả của thế gian, cần phải chấm dứt. Diệt, Đạo là nhân quả của xuất thế gian để tu mà chứng.

Ngộ: Giác ngộ. Liễu tri. Hiểu biết một cách tường tận về sự Khổ. Thấy rõ sự mê mờ, tối tăm của các hành vô minh, tham dục, khát ái, để ly khai chúng, dập tắt không cho sinh khởi, mà một khi dập tắt vô minh, đoạn trừ tham dụckhát ái thì một trời giác ngộ hiện bày. Tham, sân, si không còn. Vô tham, vô sân, vô si hiển hiện. Trời chân như tỏ rõ, hiện tiền:

"Nhất nhơn phát chơn quy nguyên

Thập phương thế giới tận thành tiêu vẫn."

Khi chúng ta phát tâm tu tập để trở về với bản tánh chân thật, thì cảnh giới mê mờ, lầm chấp, vô minh trụ địa, vọng tưởng trước đó đều tiêu mất không còn tồn tại. Điều này giống như người nhặm mắt nhìn vào hư không thì thấy đầy trời hoa đốm. Nhưng khi hết nhặm mắt rồi thì nhìn vào hư không thấy rỗng suốt, lắng trong, không thấy có hoa đốm nữa.

Nhập: Sau khi chúng ta đã ngộ được lời Phật dạy: Nhơn pháp câu không. Ngã, ngã sở đều giả có mà không thật. Tất cả các pháp đều không tánh - như lời Kinh Bát Nhã: "Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm" thì thênh thang mà bước vào thế giới chân như, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Một thế giới tuyệt đối an lạc. Vậy trước khi bước vào thế giới an lạc tuyệt đối này cần phải rũ bỏ tất cả mọi huyễn hoặc của phàm tình để có được tri kiến Phật. Phương tiện có Khai, có Thị, có Ngộ, có Nhập một cách rốt ráo mà có được tri kiến Phật. Đây chính là định hướng con đường tu chứng của Kinh Pháp Hoa. Ngoài ra, còn có nhiều nhơn duyên phương tiện khác:

"Nhất nhơn tán loạn tâm

Nhập ư tháp miếu trung

Nhứt xưng Nam Mô Phật

Giai dĩ thành Phật Đạo."

Dịch:

Một người tâm tán loạn

Đi vào trong tháp Phật

Một lần niệm Phật thôi

Người ấy đã thành Phật.

Nếu hiểu rốt ráo thì thành Phật đâu dễ dàng như vậy. Tâm tán loạn đã là tâm cần buông bỏ tâm cần thủ hộ, phòng hộ cẩn mật, chứ có đâu mà chỉ niệm "Nam Mô Phật" mà thành Phật được. Vậy thành Phật ở đây phải hiểu như thế nào?

Điều thứ nhất: Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh. Cái tánh Phật luôn có trong tâm của con người, dù người ấy định tâm hay tán tâm, bất cứ khi nào, lúc nào tánh Phật cũng luôn ở trong ta.

Điều thứ hai: Dù người tán tâm ấy suy nghĩ trời, trăng, mây, gió nhưng cũng đồng thời nhớ mình bước chân vào tháp Phật thì niệm Phật nghe. Niệm Phật được phước. Như vậy, tâm Phật và tâm chúng sanh trộn lẫn với nhau, ở chung với nhau. Khi tâm nào mạnh hơn thì tâm ấy hiện khởi, tâm ấy nổi trội, còn tâm nào yếu hơn thì tâm ấy chìm xuống, lắng sâu.

Điều thứ ba: Khi mình đối cảnh mà không sinh tâm: Cư trần lạc đạo - Trần Nhân Tông, thì gọi là Thiền. Nhưng đồng thời đối cảnh mà sanh tâm - tâm thiện, tâm lành, tâm sùng kính, tâm lễ Phật, quy y... thì đây là trường hợp ngang qua đời sống, sinh hoạt hằng ngày. Như năm bảy người đang chuyện trò, nói đông tây, kim cổ ở ngoài sân chùa và được mời vào Chánh điện, thì tất cả những chuyện đông tây, kim cổ ấy đều chấm dứt ngay - tâm tán loạn lắng xuống và tất cả mọi người nhất tâm chấp tay, chiêm ngưỡng Phật và lạy Phật - tâm thanh tịnh dấy khởi. Như vậy, những người ấy cũng được phước. Ta gọi đó là thành Phật - thành Phật từng phần chứ chưa phải thành Phật toàn phần. Từng phần giác, chứ chưa phải toàn phần giác, rồi nhiều nhơn duyên hội tụ như vậy mà thành toàn giác.

Điều thứ tư: Con ngườitâm tán loạn khi đó nhưng vẫn có nhơn duyên với Phật Pháp, nên đã bước chân vào tháp Phật và niệm "Nam Mô Phật" thì có gì bằng. Trong khi tâm mình tán loạn, ấy vậy mà nhìn thấy ngôi bảo tháp thờ Phật, tâm thành kính trổi dậy, tâm tán loạn liền mất. Đây có phải là đã thành Phật trong sát na ấy không? Vì trước mặt của mình chỉ có tháp Phật và mình đang ở trong tháp Phật, cảm giác an vui, hạnh phúc của người có tín tâm với Phật. Niềm tin yêu giác ngộ.

Điều thứ năm: Có biết đâu, người tâm tán loạn hôm nay, nhưng nhiều đời trước họ cũng đã từng niệm "Nam Mô Phật". Do vậy, hạt giống Phật đã được gieo trong tâm và bây giờ gặp cảnh Phật thì nhớ mà niệm "Nam Mô Phật" một cách tự nhiên, không cố gắng, không vận dụng, không cố ý, mà đã nhập diệu lâu đời.

Tóm lại, nhờ nhơn niệm Phật mỗi ngày một ít, để tích lũy lâu đời, được tâm thanh tịnh, rồi một khi nhơn duyên nó đến là hiển lộ Phật tâm, Phật lòng, Phật hạnh ngay tức khắc. Con đường tu chứng của Kinh Pháp Hoa là làm như thế nào để cho cái hoa sen trong tự tâm của chúng ta ngày thêm tươi tốt, vượt thoát ra khỏi bùn lầy phiền não để nở hoa đẹp, để đơm hương thơm hiến dâng cho đời, như lời bài kệ:

"Khể thủ từ bi đạo sĩ tiền

Mạc sanh Tây thổ mạc sanh thiên

Nguyện vi nhất trích dương chi thủy

Sái tác nhân gian tịnh đế liên."

Dịch:

Trước đấng từ bi nguyện mấy lời

Chẳng sanh đất Phật chẳng lên trời

Xin làm giọt nước cành dương nhỏ

Sái rực đài sen sạch bụi đời.

Giáo pháp tu chứng ngay trong thế gian mà không tìm cầu nơi xa xôi nào khác. Bởi vì sự vật nó là: cái Tánh như vậy, cái Tướng như vậy, cái Thể như vậy, cái Tác như vậy, cái Dụng như vậy... Rốt ráo trước sau như vậy. Giáo pháp Thập như đã khẳng định một cách minh nhiên rằng: sơn hà đại địathế giới con người tất cả đều là như vậy.

Nhất thừa đạocon đường tu chứng của Kinh Pháp Hoa. Chúng ta hãy nhiếp niệm tâm ý nghe lời Phật dạy qua bài kệ nơi Phẩm Phương Tiện:

Chư Phật lưỡng túc tôn

Tri pháp thường vô tánh

Phật chủng tùng duyên khởi

Thị cố thuyết nhất thừa

Thị pháp trụ pháp vị

Thế gian tướng thường trụ

Ư đạo tràng tri dĩ

Đạo sư phương tiện thuyết."

Dịch:

Các đức Phật có đủ đôi chân phước và huệ - Phước huệ lưỡng toàn

Phật biết rõ các pháp là không tánh - tánh không

Hạt giống Phật từ nơi duyên mà hiện khởi.

Cho nên phương tiện nói là nhất thừa

Pháp ấy an trụ và vị trí nó như vậy

Tướng của thế gian luôn hiện hữu - Hiện hữu trong vô thường, vô ngã.

Nơi Đạo tràng, trong hội chúng hiểu như vậy.

Bậc Đạo sư phương tiện mà giảng dạy.

"Đức Phật thì thấy các pháp trùng trùng duyên khởi tương quan lẫn nhau vô cùng tận mà hình thành. Như vậy, một pháp hiện hữu giữa tất cả các pháp, tất cả các pháp hiện hữu từ một pháp. Ngoài một pháp không có tất cả pháp, ngoài tất cả pháp không có một pháp. Nếu thấy các pháp riêng biệt là không hiểu rõduyên khởi... Các pháp có khi thành, khi hoại, khi có, khi không, gọi là sanh tử thành hoại, nhưng cái vô tự tánh của các pháp thì không có sanh tử thành hoại." Lược giảng Kinh Pháp Hoa - HT Thích Thiện Siêu - Trang 515.

Tu cho mình. Tu cho người. Tu cho cả hai. Rồi cả hai đều thành Phật thì cần phải có yếu tính Từ Bi:

- Chúng sanh duyên từ

- Pháp giới duyên từ, hay đồng thể đại bi

- Vô duyên từ hay vô duyên đại từ

Cả một trời đại từ. Cả một biển đại bi. Người tu lấy đó làm chất liệu để hóa độ. Có hóa độ thì có tu tập. Có tu tập thì có chứng đắc. Ba đức tính của người tu Pháp Hoa thật rõ ràng:

- Ở nhà Như Lai

- Mặc áo Như Lai

- Ngồi tòa Như Lai

1. Nhà Như LaiĐại Bi Tâm. Người tu là phải có Tâm Đại Bi. Không có Tâm Đại Bi - Tâm Cứu Khổ là không tu được.

2. Áo Như Lai là áo Nhu hòa Nhẫn nhục. Người tu mà không nhẫn nhục thì không thể tu được.

3. Tòa Như LaiNhất thiết pháp không. Người tu phải hiểu, tất cả các pháp đều không - Vô ngã. Nếu không hiểu các pháp đều không - Sự vật đi trên tiến trình: Thành, Trụ, Hoại, Không thì không thể tu được. Vì còn nhiều sự ràng buộc, dính mắc bởi cái ngã và ngã sở.

Chúng ta lắng nghe HT Thích Trí Thủ phát nguyện:

"Một lòng kính lạy Phật Đà

Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai

Con nguyền mặc áo Như Lai

Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời."

Định hình cho một con đường tu chứnghạnh phúc biết bao. Con đường của sự thăng hoa Thánh thiện. Con đường dẫn đến sự giác ngộ, giải thoát - Con đường Nhất Thừa Đạo - con đườngPháp Hoa đã khẳng định: con người tu, con người thành Phật. Đức Thế Tôn đã tuyên bố một cách minh nhiên.

Chùa Phật Đà, ngày 30 tháng 01 năm 2021

Thích Nguyên Siêu

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2022)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3023)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2636)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3547)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3374)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4209)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3722)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4266)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2354)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3517)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4195)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3974)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2916)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3394)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3519)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4581)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3917)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4804)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4070)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3057)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3797)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3946)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3115)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3636)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4485)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3750)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2286)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2653)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3063)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2752)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4621)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4969)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2862)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5355)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2889)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3322)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4416)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4972)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4734)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3281)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4586)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4309)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6171)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3534)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4060)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6048)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5440)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 33263)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3202)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4193)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4763)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3115)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3844)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3581)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6587)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2803)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3255)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4618)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3485)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7348)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant