Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Sự Phân Chia Giai Cấp Trong Xã Hội Ần Độ Nhìn Từ Kinh Tiểu Duyên

03 Tháng Tám 202108:12(Xem: 3039)
Sự Phân Chia Giai Cấp Trong Xã Hội Ần Độ Nhìn Từ Kinh Tiểu Duyên

Sự Phân Chia Giai Cấp Trong Xã Hội Ần Độ
Nhìn Từ Kinh Tiểu Duyên

Tâm Lễ-Nguyễn Ngọc Luật

 
chua

Kinh Tiểu Duyên  (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp, là bản kinh thứ 27 trong Trường Bộ Kinh (Dīghanikāya), trong Trường A Hàm bản Hán tạng là bản kinh thứ 5. Kinh do Đức Phật giảng tại Savatthi cho hai đệ tử là Bà-tất-tra (Vāsettha) và Bà-la-đọa  (Bhāradvāja) , hai đệ tử này thuộc giai cấp Bà-la-môn khi xuất gia theo Phật họ bị những người Bà-la-môn khác trách mắng rằng:

-Chúng ta là dòng Bà-la-môn tối cao bậc nhất, các bậc khác là thấp hèn…cớ gì ngươi bỏ dòng thanh tịnh của mình mà vào dòng dị pháp của Cù-đàm kia? Bạch Thế Tôn, thấy chúng con ở trong Phật phápxuất gia tu đạo nên họ lấy lời lẽ như thế chê trách chúng con.”

Nhân đó Đức Phật giải thích về nguồn gốc thế giới cũng như sự phân chia giai cấp trong xã hội loài người, phủ nhận quan niệm cho rằng đẳng cấp Bà-la-môn là cao quý hơn đẳng cấp Sát-đế-lỵ là giai cấpĐức Phật xuất thân.

Theo giáo lý của Hindu giáo thì con người được phân thành bốn giai cấp chính đó là:

1 Bà-la-môn (Brahman):  Đây là những người thuộc giới tăng lữ, triết gia, học giả. Đây được xem là một giai cấp lãnh đạo tinh thần, nằm quyền lực trong lãnh vực văn hóa, tôn giáotham gia công việc triều chính để cố vấn , tổ chức nghi lễ, tế tự cho chính quyền. Họ quan niệm là được sinh ra từ miệng Phạm Thiên (Brahma – Đấng Tối cao của Hindu giáo), thay mặt cho Phạm Thiên để lãnh đạo tinh thần cho dân chúng nên có phải được các giai cấp dưới tôn kính và họ có toàn quyền hưởng thụ mọi sự sung sướng.

 2. Sát-đế-lỵ (Kshastriya): Họ là những người thuộc giai cấp quý tộc hoặc là vua chúa, quan quyền, nắm quyền về cai trị đất nước. Họ tự cho mình là sinh ra từ cánh tay Phạm Thiên, thay mặt Phạm Thiên nắm quyền thống trị dân chúng về chính trị, quân sự nên cũng phải được các giai cấp khác tôn kính.

3. Vệ-xá (Vaisya): Là tầng lớp của những người buôn bán, thợ thuyền, họ được cho là sinh ra từ bắp vế Phạm Thiên. Tuy là giai cấp bình dân nhưng họ có của cải, một số là giới giàu có trong xã hội và đóng góp sưu thuế phục vụ hai giai cấp trên nên họ cũng có một số đặc quyền và cũng được coi trọng.

4. Thủ-đà-la (Soudra): Đây là những người tiện dân, các giai cấp trên xem họ được sinh ra từ gót chân của Phạm Thiên và họ được đối xử rất tàn tệ, họ chỉ được phép làm những việc thấp kém, nặng nhọc để phục vụ cho các giai cấp trên.

Ngoài ra còn một tầng lớp thấp kém nhất không được xếp vào một giai cấp nào cà đó là Chiên-đà-la ( Ba-ri-a, Pariah), đây là một hạng người được xem là thấp kém nhất trong xã hội Ấn Độ. Họ không được xếp vào giai cấp nào cả mà họ chỉ tồn tại để  làm những công việc thấp kém, họ được sinh ra để làm nô lệ cho những giai cấp trên. Họ bị đối xữ như thú vật, thậm chí còn bị đánh đập, hành hạ khi đụng vào chéo áo hoặc nhìn vào thức ăn, hoặc vô tình đạp lên cái bóng  của những người Bà-la-môn. Sát-đế-lỵ.

Hindu giáo quan niệm rằng con người sinh ra thuộc đẳng cấp nào thì họ thuộc về đẳng cấp đó, cho dù những người thuộc các giai cấp thấp kém có phấn đấu đến đâu cũng không thể trở thành giai cấp cao hơn được. Vì thế người thuộc gia cấp Bà-la-môn, Sát-đế-lỵ thì không được kết hôn với các giai cấp dưới và như đã được sắp đặt từ trước những người thuộc giai cấp cao quý thì được làm những việc được cho là cao quý, còn những người thuộc giai cấp thấp hèn thì chỉ làm những việc thấp hèn. Điều đó được xem là bất di bất dịch không thể thay đổi được. Tất cả những điều được đề cập trên đây đều xuất phát từ bộ luật Manu của Hindu giáo với những quy định ngặt nghèo về sự phân chia giai cấp trong xã hội Ấn độ ra đời khoảng 1200 năm trước Thiên Chúa giáng sinh.

Luật Manu của Hindu giáo ghi rõ: “Một người Bà-la-môn dưới 10 tuổi cũng có thể coi là cha của một kẻ ở các đẳng cấp dưới, dầu cho kẻ ấy đã 100 tuổi”.

Thế nhưng từ khi Đức Phật thành đạotruyền bá giáo lý của ngài thì mọi quan niệm về giai cấp được cho thành trì kiên cố để những người Bà-la-môn và Sát-đế- lỵ dựa vào đó mà thống trị dân chúng đã bị đảo lộn. Đức Phật phủ nhận toàn bộ quan niệm về giai cấp trong luật Manu của Hindu giáo  đang được thực hành trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Giáo lý của Đức Phật quan niệm rằng tất cả mọi chúng sanh đều bình đẳng, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và có khả năng thành Phật. Sự bình đẳng của giáo lý Đạo Phật được thể hiện một cách triệt để trong đời sống và mọi hành hoạt của Đức Phật, ví như trong giáo đoàn bao gồm 1250 đệ tử xuất gia của Đức Phật đều có đủ thành phần xã hội từ Bà-la-môn, đến Chiên-đà-la. Tất cả trong số họ đều được đối xử bình đẳng, cùng ngồi chung chiếu, cùng sống chung trong một tinh xá, sống với nhau trong tinh thần lục hòa cộng trụ, họ chỉ hơn nhau về mức độ tu tập và sự chứng ngộ.

Trong kinh Tiểu Duyên, Đức Phật đã giải thích về nguồn gốc cùng sự hình thành xã hội loài người. Qua đó Đức Phật khẳng định khởi thủy quả đất được hình thành chưa có một sinh vật nào tồn tại, sau một thời gian rất dài loài người xuất hiện, ban đầu chỉ thụ hưởng cuộc sống một cách tự nhiên nhưng dần dần do tham lam mà hình thành sự tư hữu và chiếm dụng. rồi từ đó nãy sinh ra những mâu thuẩn, bất đồng và tranh giành đất đai, của cải mà không có ai là người có thẩm quyền đứng ra phân xử. Vì vậy họ họp nhau và bầu ra một người có uy tín, có sức mạnh, nhan mạo đoan chính để làm trọng tài phân xử mọi sự tranh chấp trong cộng đồng gọi là  Mahāsammato (Tàu dịch là ‘Đại bình đẳng chủ). Bấy giờ họ đồng ý với nhau rằng mọi người phải đóng góp lương thực để nuôi sống vị “Đại bình đẳng chủ” mà họ tôn lên. “”Người kia thường lấy lời hay đẹp ủy lạo mọi ngườimọi người đều hoan hỷ tôn xưng rằng: Lành thay Đại vương! Lành thay Đại vương! Từ đó thế gian mới bắt đầu có danh từ vua. Lấy chánh pháp trị dân, nên gọi là Sát-lỵ và thế gian bắt đầu có tên “Sát-lỵ”( Kinh Tiểu Duyên- bản Việt dịch của HT Tuệ Sỹ). Xã hội ngày càng phức tạp, xuất hiện nhiều điều xấu ác, giành giật quyền lợi, làm nhiều điều bất thiện khiến cho có người chán ghét mà  từ bỏ cuộc sống thế tục lên rừng sâu hằng ngày khất thực, sống tỉnh lặng, thiền tịnh tu hành, xa lìa các ác pháp, đến giờ ăn thì mang bình bát đi khất thực, từ đó trong thế gian mới xuất hiện tên Bà-la-môn. Các giai cấp sau đó cũng theo nhu cầu xã hội và tính đặc thù của từng công việc mà hình thành.

Như vậy theo kinh Tiểu Duyên thì giai cấp do nhu cầu và sự chuyển hóa của con ngườixã hội mà hình thành chứ không phải được phân định từ những vị thần như trong giáo lý đạo Hindu. Có một điểm cần lưu ý là do nhu cầu thiết yếu mà con người thỏa thuận với nhau là bầu lên một vị minh chủ, làm trọng tài để phân xử các tranh chấpduy trì sự trật tự của xã hội. Như vậy từ ý thức ban đầu, những vị vua chúa được bầu lên một cách dân chủbình đẳng, được dân chúng góp tiền của để nuôi vị minh chủ này, nó  không khác gì xã hội đương đại bầu cử Tổng thống một đất nước vậy. Với luận thuyết này Đức Phật đã bác bỏ tất cả các quan niệm về giai cấp của đạo Hindu trước đây, bác bỏ quan niệm cho rằng giai cấp Bà-la-môn vốn là thượng đẳng được sinh ra từ miệng Phạm Thiên, thay mặt Phạm Thiên để thống trị loài người.

Đức Phật cũng khẳng định răng sở dĩ con người được tôn kính hay bị chê trách, khinh bỉ  là do hành vi thiện hay ác mà họ tạo tác chứ không phải là dòng dõi hoặc giai cấp mà họ xuất thân. Tất cả chúng sanh đều bình đẳng như ngài đã tuyên thuyết : “ Không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ và nước măt cùng mặn”.

Tâm Lễ-Nguyễn Ngọc Luật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4495)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4541)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7281)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2942)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12176)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3976)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3789)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4172)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3660)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5018)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6637)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3978)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4095)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5313)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3774)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4510)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3533)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3916)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4379)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5381)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3833)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3918)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3853)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4804)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4496)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4233)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3815)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4614)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4174)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6078)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4586)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4929)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4144)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4793)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5641)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3612)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4012)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4575)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5260)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3126)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4733)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4518)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4266)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4724)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4478)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4584)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7195)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5184)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4980)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4569)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5588)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5247)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4144)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5991)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4700)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4855)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5459)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5599)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5794)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4980)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant