Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quan Điểm Chân NhưPhật Tánh Trong Tác Phẩm Tham Đồ Hiển Quyết Của Thiền Sư Viên Chiếu

04 Tháng Tám 202108:18(Xem: 2543)
Quan Điểm Chân Như – Phật Tánh Trong Tác Phẩm Tham Đồ Hiển Quyết Của Thiền Sư Viên Chiếu
Quan Điểm Chân NhưPhật Tánh Trong Tác Phẩm
Tham Đồ Hiển Quyết Của Thiền Sư Viên Chiếu

Thích Nữ
Trung Ý

Con Đường Chư Phật Đã Dạy

Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được. Có Phật tánh chỉ là tiền đề dẫn đến thành Phật, song để nhận ra và quay trở về với Phật tánh thì không phải ai cũng có thể làm được.

Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất. Không những là bậc chân tu ngộ đạo, Thiền sư còn có tài văn chương xuất chúng. Tất cả những tác phẩm của Ngài trước tác và để lại cho đến nay chỉ còn “Tham đồ hiển quyết”, tác phẩm kết tinh từ những hương thơm cỏ lạ, khoe sắc giữa vườn văn học Thiền tông Việt Nam.

Hành trạng của Thiền sư Viên Chiếu

Theo Thiền uyển tập anh, Thiền sư Viên Chiếu (圓照) (999-1091) họ Mai, tên Trực, người Long Đàm, Phúc Đường (nay thuộc Thanh Trì, Hà Nội). Ngài là con người anh của Thái hậu Linh Cảm nhà Lý, ngay từ nhỏ đã thông minh hiếu học. Sau xuất giathọ giáo với Thiền sư Định Hương núi Ba Tiêu, rất tinh thông pháp Tam quán trong kinh Viên Giác, thâm đắc ngôn ngữ tam muội, thuyết giảng lưu loát, người đến học rất đông(1). Sau khi chứng đạo, Thiền sư trụ trì chùa Cát Tường tại Thăng Long. Tham đồ hiển quyết là một tác phẩm viết theo thể tài thoại đầu thiền ngữ. Tức là thiền sinh đặt ra câu hỏi về những vấn đề nan giải như chân như, Phật tánh, hay các vấn đề khác nữa. Tất cả được sư kiến giải bằng hình ảnh thi ca đơn giảnvô cùng thâm thúy.

Thiền sư Viên Chiếu vận dụng tinh tế những hiện tượng nghịch lý của cuộc sống hiện thực, nhằm đả thông sự trực ngộ của người hỏi. Ngài kéo tâm phóng đãng, bay bổng, miên viễn của người học đạo trở về với thực tại, nhìn sâu vào bản chất, bản thể tự tánh thanh tịnh của mỗi người. Thiền học của Ngài đặc biệt nhấn mạnh đến “tâm”: “Chú trọng đến chữ tâm, khai thác tận cùng các yếu tố thuộc về tâm chứ không đơn thuần chỉ là tìm hiểu để khai thác mặt tâm lý xã hội” (2).

Thoại đầu thiền ngữ

Tư duy thiền học tức là lối tư duy thiên về trực cảm, trực giác tâm linh. Chính nhờ khả năng trực cảm ấy, con người trực ngộ bản thể của các pháp. Khi người học trò đặt câu hỏi: “Thanh thanh thúy trúc tận chân như. Như hà thị chân như dụng? (Xanh xanh trúc biếc thảy đều chân như. Thế nào là cái dụng của chân như?), Sư đáp:

赠君千里 远

笑 把 盛 茶

“Tặng quân thiên lý viễn
Tiếu bả nhất âu trà” (3).
(Tặng người nghìn dặm xa
Cười xách một bình trà).

Đôi khi việc học đạo không đòi hỏi những điều quá cao siêu, thần bí, mà chỉ là sự cảm nhận từ những việc đơn giản, nhẹ nhàng nhưng thật sâu sắc. Bản thể của vạn pháp được Thiền sư lý giải nhẹ nhàng như việc một người đi xa nghìn dặm được ân cần cười tặng một bình trà. Đối với người học trò, bản thể chân như có mặt trong tất cả khóm trúc xanh xanh kia, nhưng vẫn chưa hiểu thế nào là dụng của chân như. Dụng là khái niệm của Phật giáo Đại Thừa chỉ tác dụng giáo hóa thế gian.

Thiền sư Viên Chiếu giải quyết vấn đề bản thể chân như của các pháp một cách đơn giản nhưng vô cùng thiện xảo, hướng tâm người học trò trở lại với thế giới hiện thực. Chân như không ở đâu xa mà vẫn luôn hiện hữu trong cuộc sống, nơi hàng trúc xanh xanh kia. Điều này nói lên rằng trong mỗi con người đều có bản thể chân như thanh tịnh, chỉ những ai dụng công tu tập, quét sạch lớp bụi vô minh mới nhận ra. Dụng của chân như giống như một ấm trà vui vẻ tặng cho người đi đường xa, giúp thêm sức mạnh vượt qua khó khăn trên đường. Hành giả muốn cảm nhận tác dụng thật sự của chân như, cần có một công phu hành trì tu tập miên mật, sống với tâm thế tự tại an nhiên. Giống như việc người khách phương xa thưởng thức một tách trà, y bỏ qua những phân biệt đối đãi về loại trà hay cách thức pha trà, mới cảm nhận được trọn vẹn hương vị của nó. Vị Tăng lại hỏi: “Nhậm ma tức không lai hà ích?” (Thế nào là uổng công đến mà không ích gì?), Sư liền đáp rằng:

谁识东啊去。

途中载白头。

“Thùy thức Đông a khứ
Đồ trung tái bạch đầu” (4).
(Ai hay đi đến gò Đông
đầu mà vẫn ruỗi rong giữa đường).

Bên trên đã khai tâm trí của người học trò về bản thể của các pháp hiện hữu, dụng của chân như Phật tánh đều tồn tại trong mỗi người chứ không phải riêng cá nhân nào. Chân như là sẵn có trong mỗi chúng sanh, ai ai cũng có thể tánh thanh tịnh, điều này khiến người học trò cho đó là điều bình thường hiển nhiên, vậy mới nói là uổng công đến mà không lợi ích gì. Tuy nhiên, người ấy lại quên rằng không phải ai cũng có thể nhận ra sự có mặt của chơn tâm thường trụ nơi chính bản thân mình.

Thiền sư Viên Chiếu chuyên trì kinh Viên Giác, vì vậy quan niệm về bản thể chân như cũng có ảnh hưởng tư tưởng của bản kinh này. Bản thể trong kinh Viên Giác chính là Viên giác diệu tâm Như Lai: “Tất cả chúng sanhmọi vật huyễn hóa đều sanh từ Viên giác diệu tâm Như Lai. Ví như hoa đốm trong hư không từ hư không mà có, hoa đốm tuy diệt mà tánh hư không không hoại. Tâm huyễn của chúng sanh lại y nơi pháp huyễn mà diệt. Pháp huyễn tâm huyễn diệt hết thì tánh giác bất động” (5).

Như vậy, bản thể là cái bất động còn biểu hiện của sự vật hiện tượng trên thế giới này chỉ là tướng của bản thể mà thôi. Hình tướng phân biệt có thể khác nhau nhưng bản thể thì đều bình đẳng như nhau. Bản thểthanh tịnh, bình đẳng, bất động nhưng liệu rằng dễ dàng nhận biết như việc chính mình không biết người chủ của mình là ai, cũng như không nhận ra bản thể chân như thì dù có rong ruỗi đi tìm sự giải thoát đến bạc đầu vẫn không tìm ra. Người tham vấn cứ thế lại hỏi một câu khác: “Nhất thiết chúng sanh, giai ngôn thị Phật. Thử lý vị minh, thỉnh sư thùy thị” (Hết thảy chúng sanh, nói mình là Phật. Chưa thấu ngọn ngành, xin thầy dìu dắt). Sư đáp:

劝君且务农桑去。

莫学他人待兔劳。

“Khuyến quân thả vụ nông tang khứ
Mạc học tha nhân đãi thố lao” (6).
(Khuyên người gắng việc nông tang
Học người chờ thỏ bên đường uổng công)

Sau 49 ngày thiền định dưới cội Bồ-đề, Đức Phật đã xác chứng rằng: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”, tức là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và đều có khả năng thành Phật. Điều đó cho chúng ta một niềm tin mãnh liệt để bước trên con đường tu tập theo giáo lý Đức Phật đã dạy. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng của Như Lai”. Như vậy, chúng ta không còn chút nghi ngờ gì nữa về Phật tánh sẵn có trong mỗi người, chỉ là Đức Phật đã nhận ragiác ngộ hoàn toàn còn chúng ta tuy sẵn có nhưng vì vô minh phiền não che lấp nên không thể hiển lộ được bản tánh giác ngộ ấy. Ý hết thảy chúng sanh đều nói mình là Phật có lẽ là nói đến Phật nhân trong mỗi con người chứ không phải Phật quả, vì từ nhân trở thành quả đòi hỏi phải trải qua quá trình công phu tu tập hành trì. Hay nói cách khác, tất cả chúng sanh đều có sẵn Phật nhân, là hạt giống thiện lành, nếu biết tu tập theo đúng chánh đạo, hành đúng Chánh pháp, tất cả chúng sanh đều có khả năng giác ngộ, giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, trở thành một vị Phật.

Thiền sư với kinh nghiệm chứng ngộ của mình đã khuyên học trò quay về làm những việc đồng áng thường nhật của nông phu. Ngài dùng điển tích rút từ “Thiên Ngũ đố” trong Hàn Phi Tử, kể về một người làm nông nước Tống gặp một con thỏ chạy vấp phải một gốc cây mà chết. Anh đem về làm thịt ăn. Hôm sau ra đồng, bỏ cả cày bừa, đến gốc cây ngồi đợi một con thỏ khác, nhưng cuối cùng vẫn không có con thỏ khác, ngược lại còn bị người nước Tống chê cười (7). Truyện ngụ ý rằng, chúng ta đừng phí sức trông chờ vào những sự ăn may, việc xảy ra một lần nên nghĩ sẽ luôn luôn diễn ra như thế nên trông chờ, đó là sự trông chờ hoài công.

Nắm bắt được tâm tư suy nghĩ của học trò, Thiền sư lo sợ đệ tử sẽ rơi vào tự mãn khi chấp vào câu nói “Hết thảy chúng sanh đều là Phật”, chưa chứng mà cho đã chứng sinh ra tâm lý ỷ lại, không cần tu tập, không cầu giải thoát. Cho nên Ngài mới khuyên hãy làm những việc bình thường với tâm sáng suốt tĩnh lặng, tức là “bình thường tâm thị đạo”. Đừng tìm kiếm Phật ở đâu xa xôi, Phật hiện hữu trong tâm mình, tâm thanh tịnh sáng suốt đó chính là tâm Phật. Dù làm những công việc đồng áng thường ngày trồng rau, hái trái nhưng với tâm không vọng động, không phiền não chấp trước thì đó là tâm chư Phật hiện hữu. Ngược lại, không chịu tinh tấn tu hành theo lời Phật dạy sao có thể tiến bước trên con đường giác ngộ, đạt đến Niết-bàn được. Như anh chàng ôm cây ngồi đợi thỏ, chỉ hoài công phí sức. Tăng lại thưa: “Hạnh mông sư hiển quyết, chung bất hướng tha cầu” (Ơn thầy chỉ rõ trước sau, chung quy khỏi phải tìm đâu thêm phiền). Sư đáp:

可怜遭一噎。

饥坐却忘餐。

“Khả lân tao nhất yết
Cơ tọa khước vong san” (8).
(Thương thay từng nghẹn một đôi lần
Đói lả ngồi ngây chẳng dám ăn).

Người học trò khi được Thiền sư dạy như thế, cho là đã ngộ rồi không cần đi tìm cầu ở nơi khác. Thiền sư khai ngộ bằng hình ảnh một người đói lả ngồi trước thức ăn mà chưa dám ăn, thật đáng thương. Chỉ ý của Thiền sư muốn nói đến những vị nghe rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tỏ ra tự mãn không muốn tìm cầu, không thực hành các thiện pháp, mà muốn thành Phật. Như thế thật không khác gì người đói, đói công phu tu tập theo giáo pháp Như Lai mà khao khát thành Phật. Thiền sư giảng đến đây, người học trò thốt lên rằng: “Kỷ niên đa tích năng trung bảo, kim nhật đương trường địch diện khan” (Của báu bao năm công góp nhặt, đến nay nhìn trước mắt rành rành). Sư đáp:

祇待中秋月。

却遭云雨侵。

“Chỉ đãi trung thu nguyệt
Khước tao vân vũ xâm” (9).
(Những đợi trăng trung thu
Nào hay khuất mây mù).

Nhiều năm bao công góp nhặt của báu, ngày nay trước mắt thấy rõ ràng. Câu này người học trò hỏi mà dường như không hỏi. Nghe qua câu nói của người học trò, tưởng chừng y đã ngộ, tự nhận ra chơn tâm Phật tánh trong chính mình. Nhưng Thiền sư Viên Chiếu lại nói: “Chờ mãi trăng Trung thu để thấy trăng tròn sáng nhất, nào ngờ bị mây mưa che khuất”. Nghĩa là, người học trò đã biết nơi mỗi người đều có Phật tánh thanh tịnh song chưa sáng tỏ mà bị mây vô minh che khuất, thật đáng buồn thay. Chân như Phật tính sáng suốt, thanh tịnh, tịch tĩnh, không có trong ngoài trước sau. Do đó, Thiền sư biết người học trò tâm chưa sáng nên dùng hình ảnh ví dụ khác để khai tâm mở trí.

笑他徒抱柱。

溺死向中流。

“Tiếu tha đồ bao trụ
Nịch tử hướng trung lưu” (10).
(Cười ai vịn cột cầu
Chết đuối dưới dòng sâu).

Thiền sư lại dẫn một điển tích văn học Trung Quốc, kể về anh chàng tên Vi Sinh hẹn gặp người yêu dưới cột cầu. Người con gái không đến. Chờ mãi, nước lên, Vi Sinh giữ lời hứa không bỏ chỗ hẹn, ôm cột cầu mà chết đuối (11). Ngài mượn câu chuyện để dạy cho người học trò rằng, chúng ta nhận biết Phật tánh tồn tại trong mỗi người nhưng không đồng nghĩa thành Phật. Chúng sanh ai ai cũng có Phật tánh nhưng không phải ai cũng đều thành Phật. Muốn giác ngộ thành Phật phải gia công hành trì tu tập, ngược lại nếu chấp vào như anh chàng Vi Sinh kia, thật uổng công vô ích. Nếu chấp vào Phật tánh sẵn có rồi không tu tập, không thực hành thiền định, không thực hành Chánh pháp, mong thành Phật thì quyết không có lẽ đó. Người học trò lại hỏi: “Nhậm ma tức thành Phật đa dã?” (Như thế nào là nhiều người thành Phật, ý nghĩa câu đó thế nào?). Sư đáp:

祖龙驱自止。

徐福远徒劳。

“Tổ Long khu tự chỉ
Từ Phúc viễn đồ lao” (12).
(Đường xa Từ Phúc nhọc lòng
Nữa chừng rong ruổi Tổ Long phải dừng).

Người học trò thắc mắc vì sao lại nhiều người thành Phật? Vì theo lời Phật dạy là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật. Thắc mắc đó được Thiền sư lý giải bằng cách dẫn câu chuyện của Tần Thủy Hoàng (Tổ Long) sai đạo sĩ Từ Phúc đi ra biển tìm cỏ trường sinh. Từ Phúc dẫn ba nghìn đồng nam, ba nghìn đồng nữ đi tìm nhưng mãi không thấy trở về. Còn Tần Thủy Hoàng vẫn ở tại quê hương của mình.

Tuy nói là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng không phải ai cũng có thể quay trở về với Phật tánh của chính mình. Từ Phúc dụ cho người mê, cứ đi tìm cái không thật, để rồi không trở về cố hương của mình. Còn Tổ Long dụ cho người giác, tuy có sai Từ Phúc đi tìm thuốc trường nhưng vẫn ở tại quê hương. Tánh giác của mỗi người như nhau, nhưng khác nhau vì người mê thì không biết quay lại với Phật tánh của mình, mãi phiêu lưu trong biển sanh tử, còn người giác tự biết quay trở lại với tánh giác của mình. Như vậy, sao có thể nói là nhiều người thành Phật.

Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được. Có Phật tánh chỉ là tiền đề dẫn đến thành Phật, song để nhận ra và quay trở về với Phật tánh thì không phải ai cũng có thể làm được. Những lời dạy của Thiền sư Viên Chiếu về chân như, Phật tánh xuất phát từ sự thật chứng sâu xa về thiền chỉ. Tuy giống nhau về bản chất giác ngộ nhưng để đạt đến thành Phật, còn tùy vào căn cơ tu tập của mỗi chúng sanh.

Chú thích:

1.Ngô Đức Thọ – Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú giải) (2014), Thiền uyển tập anh, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr.48.

2.Nguyễn Công Lý (2016), Văn học Phật giáo thời Lý – Trần: diện mạo và đặc điểm, tái bản lần 3, Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM, tr.320.

3.Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.274-275.

4.Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.275.

5.Thích Nhật Quang (2019), Kinh Viên Giác giảng giải, Nxb Hồng Đức, tr.106-107.

6.Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.277.

7.Dẫn lại Lê Mạnh Thát (2002), Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam, tập 3, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, tr.402.

8.Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.277.

9.Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.277.

10.Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.277.

11.Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.292.

12.Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.278.

Tài liệu tham khảo:

1.Ngô Đức Thọ – Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú giải) (2014), Thiền uyển tập anh, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

2.Nguyễn Công Lý (2016), Văn học Phật giáo thời Lý – Trần: diện mạo và đặc điểm, tái bản lần 3, Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM.

3. Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

4. Thích Nhật Quang (2019), Kinh Viên Giác giảng giải, Nxb Hồng Đức.

5. Lê Mạnh Thát (2002), Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam, tập 3, Nxb TP.HCM.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17062)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13112)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17278)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21510)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13115)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14302)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12717)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13542)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28441)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23250)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34167)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28733)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32035)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11234)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 11903)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26135)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17245)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14429)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34308)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13025)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12195)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13304)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40362)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26793)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14373)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13146)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13361)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12424)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13030)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12202)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11694)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12474)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17554)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12112)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12644)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18336)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14168)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12886)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11217)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12043)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13384)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10744)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 10991)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10193)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28718)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25081)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26757)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25585)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18546)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 22872)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34330)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 31987)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30235)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30489)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 20854)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20097)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19292)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24280)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30488)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15583)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant