Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Giáo Lý Nghiệp Qua Lăng Kính Devadaha Sutta

01 Tháng Mười 202120:05(Xem: 4669)
Giáo Lý Nghiệp Qua Lăng Kính Devadaha Sutta
                                       
Giáo Lý Nghiệp Qua Lăng Kính Devadaha Sutta 

Như Thiện


chua

Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định. Giáo lí nghiệp không phải là do Đức Phật sáng tạo ra mà đã có từ trước khi Phật giáo xuất hiện. Rất nhiều chủ trương khác nhau được đưa ra bởi các đạo sư ngoại đạo tự nhận là bậc toàn tri, toàn kiến. Trong đó, đạo Jain (Kỳ Na giáo) là một ví dụ điển hình. Như vậy, lập thuyết về nghiệp của Jain như thế nào? Sự thẩm định của Đức Phật về chủ thuyết ấy ra sao? Bài viết hy vọng sẽ góp một phần nào làm sáng tỏ hơn về giáo lí nghiệp đến với độc giả qua lăng kính Phật giáo.

CHỦ TRƯƠNG NGHIỆP CỦA JAIN

Kinh Devadaha là bài kinh số 101 thuộc Trung Bộ Kinh (gồm 152 bài kinh). Đây là bài kinh Đức Phật giảng cho các thầy Tỳ kheo tại thị trấn Devadaha. Nội dung bài pháp thuật lại cuộc thoại giữa Ngài với ngoại đạo Nigantha về giáo lý nghiệp. Đạo Jain đã chủ trương về nghiệp như thế nào? Theo bài kinh Devadaha có ba điểm cần chú ý về chủ trương nghiệp mà Jain đưa ra:

Thứ nhất, họ cho rằng mọi cảm thọ khổ, lạc, không khổ không lạc đều do nghiệp nhân quá khứ. Như vậy, khi nghiệp quá khứ được diệt tận và không gây tạo các nghiệp mới thì nghiệp được đoạn diệt không diễn tiến đến tương lai. Do nghiệp diệt, khổ cũng được dứt. Từ đó, cảm thọ cũng không còn và mọi khổ đau đều sẽ tiêu trừ. Như vậy, ở điểm thứ nhất này chúng ta thấy được hai vấn đề mà Jain nêu ra. Một là phàm trong cuộc đời này, những cảm thọ khổ, vui, vô kícon người nhận lãnh không phải do sự tạo ra từ một đấng thần linh nào mà tất cả những thọ ấy đều do nghiệp quá khứcon người đã gây tạo. Hai là muốn đoạn diệt khổ đau thì phải thiêu cháy nghiệp quá khứ, đồng thời không gây tạo nghiệp mới ở hiện tại để đến một lúc nào đó nghiệp cũ hết thì khổ đau không còn kéo dài đến đời vị lai.

Thứ hai, phương pháp để diệt tận nghiệp. Vì Nigantha cho rằng chính thân này tạo ra các bất thiện pháp ở tiền kiếp cho nên họ chủ trương diệt nghiệp bằng hình thức khổ hạnh ép xác như: Đứng một chân giữa trời, lấy cây đánh vào thân, lõa thể không mặc gì cả,… Lý thuyết này do Mahavira tuyên thuyết. Vì ông tự xưng mình là bậc có tri kiến toàn diện nên tín đồ tin nhận và thực hành một cách tinh cần.

Thứ ba, các Ni-kiền-tử đưa ra mười tùy thuyết về nghiệp. Một là do nghiệp quá khứ nên lãnh thọ những cảm giác vui, khổ. Hai là tất cả cảm thọ được tạo ra từ một đấng tạo hóa. Ba là các thọ do điều kiện mà sanh. Bốn là các cảm thọhiện tại do sinh loại sinh. Năm là chính sự tinh tấnhiện tại mà các cảm thọ được sinh khởi. Năm thuyết sau là phủ định lại năm tùy thuyết trên.

ĐỨC PHẬT PHÊ BÌNH CHỦ TRƯƠNG VỀ NGHIỆP CỦA JAIN

Đức Phật khi nghe các ngoại đạo Nigantha có chủ trương về nghiệp như vậy, Ngài đã đến đối thoại và chỉ ra sự sai lầm trong chủ thuyết mà họ đưa ra. Trước hết, các Nigantha có tri kiến rằng mọi cảm giáccon người lãnh thọ đều do nghiệp quá khứ. Như vậy, chủ thuyết trên của Jain là một thuyết về tiền định. Phật giáo không chủ trương như vậy. Đạo Phật chủ trương giải thoát mọi sự trói buộc, không chịu nô lệ vào ai, tự mình y chỉ mình và tự mình giải thoát bản thân. Bởi lẽ, Đức Phật có mặt nơi thế gian này là để chỉ ra nguyên nhân của khổ đau mà con người phải gánh chịu và con đường đưa đến khổ não tận, chứ Ngài không đưa ra những giáo lý mang tính cực đoan để trói buộc chúng sanh. Trong kinh Nhất Dạ Hiền Giả, Thế Tôn dạy các đệ tử:

“Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng
Quá khứ đã đoạn tận
Tương lai lại chưa đến
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây” [1].

Với tuệ quán sáng suốt, Đạo Phật nhìn cuộc đời đúng với bản chất như nó đang là. Vậy Thế Tôn đã đặt ra vấn đề như thế nào để chỉ ra cái sai trong quan điểm của Jain và khiến họ khuất phục? Đức Phật chất vấn họ bằng những câu hỏi: Có biết quá khứ các ông có hiện hữu hay không? Có tạo ác nghiệp hay không? Và những nghiệp bất thiện ấy như thế nào? Mức độ của khổ đã được diệt; còn bao nhiêu khổ cần phải đoạn trừ? Đoạn trừ bao nhiêu nữa mới dứt sạch hết thảy khổ đau? Có biết về sự diệt trừ ác pháp ngay hiện tại hay sự thành tựu thiện pháp hay không? [2] Ngoại đạo Nigantha không trả lời được câu hỏi của Phật.

Sau đó, Thế Tôn đưa ra một ví dụ về một người bị trúng tên nếu như không khéo chữa trị thì nỗi đau đớn do vết thương gây ra sẽ dẫn đến tử vong. Người bị trúng tên là hình ảnh ẩn dụ cho những người thọ lãnh quả xấu do nghiệp quá khứ, mũi tên chỉ cho tham – sân – si. Nếu không tìm giải pháp để đoạn trừ ba độc thì chắc chắn sẽ mãi bị trầm luân trong sinh tử. Như vậy, ở trường hợp này, thọ khổ đưa đến cái chết. Ngược lại, cũng đồng thời là bị trúng tên nhưng người ấy được y sĩ chữa trị qua các bước: Lấy dao cắt rộng vết thương, dùng vật dụng để dò tìm mũi tên, rút tên ra khỏi thân và hơ chỗ bị thương bằng than đỏ, đắp thuốc. Những công đoạn trên đều gây ra sự đau đớn thống khổ đối với vị ấy. Nhưng chính nhờ quá trình điều trị này mà vết thương được lành, mạng sống được cứu. Đây là trường hợp khổ đưa đến an vui. Qua đây, có hai thứ khổ mà con người cần phải ý thức được đó là khổ đưa đến sanh tử luân hồi và khổ đưa đến giải thoát.

Từ ví dụ trên, Như Lai bác bỏ chủ thuyết của Nigantha vì nó chỉ thiên lệch về một bên và không mang lại lợi ích gì như trường hợp trúng tên nhưng không chịu chữa mà lo đi tìm loại tên đó là gì? Do ai bắn? Nguyên nhân bị trúng tên? Những hoài nghi này đều thuộc quá khứ. Mặc khác, họ chủ trương tất cả những gì con người cảm thọ đều do nghiệp quá khứ nhưng trường hợp người trúng tên kia trải qua sự điều trị của lương y thì vị ấy khỏe mạnh ngay trong đời này chứ đâu phải đợi đến kiếp sau. Cho nên, các nghiệp ở hiện tại cũng quyết định cảm thọhiện tại, không hoàn toàn như quan điểm của Jain.

Khi bị Đức Phật phê bình, các Nigantha thưa với Ngài rằng: Nigantha Nataputta tự xưng là bậc A-la-hán chánh đẳng giác, có tri kiến toàn diện. Ông dạy các đệ tử: “Này các Nigantha, nếu xưa kia các ông có làm ác nghiệp, hãy làm cho nghiệp ấy tiêu mòn bằng khổ hạnh thống khổ này” [3]. Các đệ tử nghe thế hoan hỷ tin nhận thực hành. Như Lai hỏi tiếp các Nigantha về năm pháp (tín, hỷ, tùy văn, thẩm định lí do, kham nhẫn chấp thọ tà kiến) mà ngay trong đời này có hai quả báo nhưng không ai trả lời được. Ở đây, như lời trình bày của các Nigantha thì họ chỉ nghe lời dạy của giáo chủ mình và áp dụng tu tập chứ không hiểu rõ. Đức Phật dạy trong kinh Tăng Chi về những điều không nên tin: “Chớ có tin vì nghe theo truyền thống; chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình” [4].

Phật dạy không nên tin theo một chủ trương hay chỉ vì nghe người ta nói rồi tin nhận, thậm chí ngay cả vị thầy của mình cũng đừng tin quá vội. Bởi vì chủ trương của Đạo Phật là thực nghiệm qua quá trình tự tu tập, tự chứng ngộ chứ không dựa trên một ai hay một pháp học mà không có sự chứng nghiệm thật thụ. Ví như người đi tìm kho báu nhưng chỉ xem bản đồ mà không chịu lên đường tìm cầu của báu thì không bao giờ đến và lấy được kho tàng hoặc giả có bản đồ, có đi tìm nhưng tấm bản đồ đó là giả thì chỉ nhọc công phí sức. Cũng vậy, khi vội tin vào một luận thuyết nào đó mà không có sự thẩm sát bằng tuệ giác thì dễ dẫn đến đi sai đường. Chỉ khi nào tự thân mình tuệ tri được đây là thiện pháp đưa đến giải thoát, kia là ác pháp dẫn tới khổ đau thì hành giả mới bắt đầu tinh tấn thực hành để điều thiện được phát triển và loại bỏ các bất thiện không cho nó có cơ hội sinh khởi.

Sau đó, Phật lại hỏi các Nigantha có phải khi họ tinh tấn thực hành khổ hạnh thì lãnh thọ cảm giác đau đớn, thống khổ và ngược lại khi từ bỏ sự tu tập ấy thì các cảm thọ khổ kia không xuất hiện nữa đúng không? Họ đồng ý với Phật về điều này. Một lần nữa Phật chỉ trích sự tinh tấn mê muội không mang lại ý nghĩa gì cho sự giải thoát hay tiêu diệt nghiệp mà họ đã chủ trương. Vì lẽ, mục đích hành trì lời dạy mà giáo chủ của họ đưa ra là để đốt cháy nghiệp quá khứ, dẫn đến các khổ không còn hiện hữu nhưng càng tinh cần bao nhiêu thì càng khổ đau bấy nhiêu và khi không thực hành pháp tu đó thì lại không khổ. Như vậy, việc khổ hay lạc ở trường hợp này đâu liên quan gì đến nghiệp quá khứhoàn toàntrong đời sống hiện tại.

Jain chủ trương tinh cần hành khổ để dứt nghiệp quá khứ, nghiệp đoạn thì khổ đoạn, khổ đoạn thì cảm thọ đoạn, cảm thọ đoạn thì tất cả khổ được diệt tận. Nhưng khi được Phật hỏi: Đối với nghiệp ở hiện tại do tinh tấn có thể được thọ quả ở tương lai và ngược lại hay không? Có thể do tinh cần, tinh tấn mà nghiệp có lạc báo thành khổ báo và ngược lại; nghiệp đã thuần thục thành chưa thuần thục và ngược lại; nghiệp được thọ nhiều quả báo thành ít quả báo và ngược lại; nghiệp có thọ báo thành không thọ báo và ngược lại được hay không? Họ trả lời là không thể được. Đồng nghĩa với việc tự khẳng định sự tinh tấn của mình không có tác dụng gì cho việc chuyển nghiệp hay đốt cháy nghiệp cả.

Mặt khác, sự hành khổ ấy cũng không đưa tới sự thuần thục, tức là sự chín mùi của nghiệp. Người ta thường nói “của cho không bằng cách cho”, có nghĩa là vật chất không quan trọng bằng tấm lòng. Như trong truyện cổ Phật giáo, có kể về một bà lão ăn xin bằng tấm lòng cung kính hướng về Thế Tôn, bà đã dùng hết số tiền mình có được để mua dầu thắp đèn dâng cúng Phật. Ngọn đèn ấy sáng tỏ và không tắt trong khi các ngọn đèn khác đã tắt lịm (có chỗ ghi lại Ngài Mục-kiền-liên dùng thần thông để tắt nhưng đèn vẫn cháy sáng). Đức Phật bảo đại chúng đó chính là do tâm tha thiết chí thành của bà cụ quá lớn nên mới có sự việc như thế. Cũng vậy, sự tu tập do tâm thành quyết định chứ không phải do ép xác khổ hạnh. Trong đại kinh Sư Tử Hống, Phật kể lại quá trình tu tập khổ hạnh của Ngài vô cùng thống khổ. Vì thế, Ngài đứng đầu trong phương pháp tu trì ấy không ai có thể vượt qua được. Ngài tuyên bố: “Về khổ hạnh, Ta khổ hạnh đệ nhất; về bần uế, Ta bần uế đệ nhất; về yểm ly, Ta yểm ly đệ nhất; về độc cư, Ta độc cư đệ nhất” [5]. Nếu hành khổ có thể đưa đến giải thoát thì Phật đã không từ bỏ pháp môn này để rồi đến cội Assattha trầm tư thiền quán và thành tựu quả vị Chánh đẳng giác. Như vậy, sự nỗ lực hành khổ không phải là con đường đưa đến sự giác ngộ, chỉ có Bát chánh đạo mới thật sự là con đường đưa đến thanh tịnh chúng sanh, thành tựu chánh trí giải thoát.

Sau khi bị Phật chỉ trích về sự bất hợp lí trong chủ trương, các Nigantha tiếp tục đưa ra mười thuyết tùy thuyết: Một là do nghiệp quá khứ nên lãnh thọ những cảm giác vui, khổ. Hai là tất cả cảm thọ được tạo ra từ một đấng tạo hóa. Ba là các thọ do điều kiện mà sanh. Bốn là các cảm thọhiện tại do sinh loại sinh. Năm là chính sự tinh tấnhiện tại mà các cảm thọ được sinh khởi. Năm thuyết sau là phủ định lại năm tùy thuyết đầu. Phật phê bình mười tùy thuyết này của Jain không hợp lý. Vì lẽ, nếu mọi cảm thọ khổ vui, vô ký là do nghiệp quá khứ thì họ đã làm ác hạnh nên nay phải chịu khổ như vậy. Nếu do tạo hóa tạo ra thì họ được tạo ra bởi một tạo hóa hung ác. Nếu do nhân duyên kết hợp thì họ bị ác nghiệp kết hợp. Nếu do nhân sinh loại thì các Nigantha bị ác sinh loại. Nếu do tinh tấn hiện tại thì họ đã tạo ác tinh tấn. Với năm tùy thuyết trái nghịch lại năm thuyết đầu thì chính Nigantha mâu thuẫn với lập thuyết mà họ đã chủ trương. Cho nên dù có nỗ lực, tin cần cách mấy thì họ cũng chỉ chuốc lấy khổ đau, sự tinh tấn theo chủ thuyết của Jain là không có kết quả.

TINH TẤN MANG LẠI LỢI ÍCH LỚN, KẾT QUẢ LỚN

Vậy sự tinh tấn như thế nào mới đem lại kết quả rốt ráo? Đó là tinh tấn không để cho tự ngã chưa bị nhiếp phục, bị khổ đau nhiếp phục và không từ bỏ lạc thọ hợp pháp nhưng cũng không để bị lạc chi phối. Do tinh cần tu tập xả bỏ những nguyên nhân đưa đến sầu, bi, khổ, ưu, não hành giả đoạn diệt được tham ái. Chính sự xả ly không còn luyến tiếc tham ái ấy, nên người tu đạt được sự giải thoát, sự vô nhiễm. Đây chính là khổ diệt thánh đế (một trong bốn chân lý chắc thật của Phật giáo) [6]. Đức Phật đưa ra ví dụ về sự ái luyến của một người nam dành cho một nữ nhân. Khi thấy cô gái ấy vui cười với người con trai khác thì vị ấy thống khổ, sầu não. Nhưng khi anh ta biết được nguyên nhân cái khổ này không phải do ai khác mang lại mà chính tâm say đắm cô gái của mình tạo nên. Từ đó, vị ấy cố gắng xả bỏ tâm ái luyến này đi. Đến khi tâm ái nhiễm ấy không còn thì dù rằng nữ nhân kia có nói chuyện, cười đùa với ai chăng nữa cũng không làm cho người nam sanh lòng phiền não. Đó là ví dụ về trường hợp từ cái khổ để thực hành sự tinh tấnđạt được kết quả lớn.

Cho nên, không thể mặc định khổ luôn luôn là cảm thọ tiêu cực, phải loại bỏ nó và lạc là cảm thọ tích cực cần duy trì, nắm giữ. Bởi vì, có những lúc ta cần nhờ vào khổ để cởi trói cho chính mình cũng giống như người thợ làm cung tên dùng lửa để uốn nắn chúng, nhưng khi cái cung đủ độ cong hay tên được thẳng rồi thì không cần dùng đến lửa để hơ nó nữa. Hay khi ngồi thiền thì vô vàn cảm thọ đau đớn nơi thân diễn ra nhưng nếu chiến thắng được cái cảm giác ấy thì thành quả đầu tiên đạt được đó là sự hỷ lạc nơi tâm và sau cùng là viên mãn tuệ giác vô thượng. Vậy với trường hợp nào thì lạc thọ cần nên bỏ? Đó chính là cái lạc do thỏa mãn sự khát ái, sự vui thích do nhục dục đem lại – là nguyên nhân dẫn đến khổ đau trong sinh tử. Thậm chí, các lạc do chứng được ở các tầng thiền định cũng không nên tham chấp vì nó chưa thật rốt ráo, chỉ khi hoàn toàn đại ngộ như Đức Phật thì đó mới là đích đến cuối cùng.

Thật vậy, thực hành theo giáo lí của Phật giáo chính là tu tập trung đạo, nghĩa là từ bỏ hai cực đoan hưởng thụ dục lạckhổ hạnh ép xác. Phật dạy các đệ tử của Ngài: Đối với cảm thọ lạc (khổ) nào mà làm cho thiện pháp tăng trưởng, ác pháp được tiêu trừ thì cần duy trì nhưng đến khi nó không còn cần thiết giúp cho sự tu tập giải thoát thì phải xả bỏ nó. Tuy nhiên Đạo Phật vẫn chủ trương lạc đem lại lợi ích cho sự tu tập hơn so với khổ, nhờ lạc mà định dễ sinh, nhờ định mà trí tuệ phát triển, còn khổ chỉ là nhân duyên phụ trợ quá trình tu để đoạn trừ dục vọng. Như vậy, sự tinh cần hành khổ của Jain là tà tinh tấn còn tinh tấn mà Phật dạy là chánh tinh tấn. Chánh tinh tấn là một chi phần trong Bát chánh đạocon đường đưa đến sự giải thoát, chứng ngộ Niết bàn. Nó còn là một chi phần trong Thất giác chi và một phần trong Ngũ cănNgũ lực. Hơn thế, đây còn là nội dung của Tứ chánh cần trong Ba mươi bảy phẩm trợ đạo: Tinh cần khiến cho các thiện pháp chưa sinh được phát sinh; các thiện pháp đã sinh thì làm cho chúng phát triển đi đến sự viên mãn; tinh tấn đoạn trừ các ác pháp đã sinh khởi; các ác pháp chưa sinh thì tinh cần ngăn chặn không cho chúng sinh khởi. Tinh tấn tinh cần như vậy làm nền tảng cho sự viên mãn minh (tuệ) và giải thoát. Cuối cùng, Phật kết luận mười tùy thuyết của Jain đáng bị chỉ trích thì mười thuyết hợp pháp của Như Lai được tán thán.

SỰ HIỂU LẦM VỀ NGHIỆP

Nghiệp theo Phật giáo là một định lí đương nhiên và nó không có tính cố định. Cho nên, con người có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc giải thoát hay phàm phu có thể trở thành bậc thánh nhờ sự tinh tấn tu tập giới, định và tuệ. Đạo Phật không chấp nhận có một đấng tạo hóa ban phước, giáng họa cho con người, mà những gì con người gánh chịu đó là kết quả tất nhiên của những nghiệp nhân mà họ đã tạo nên. Đạo Phật phê bình những ai có tà kiến về thuyết định mệnh. Trong Kinh Tăng Chi Phật dạy: “Ta là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy” [7]. Khi sinh ra có người đẹp kẻ xấu, kẻ giàu người nghèo,… đó cũng là sự chi phối bởi nghiệp cũ nhưng yếu tố quan trọng quyết định sự thay đổi kiếp sống của con người là nghiệp mới. Chính chủ trương nghiệp mới mới là nhân bản, là giải thoát theo tinh thần của Phật giáo. Ở đó, con người chính là nhân tố quyến định hạnh phúc hay khổ đau cho cuộc đời của mình chứ không ai có thể đặt định hay thay thế được:

“Tịnh, không tịnh tự mình
Không ai thanh tịnh ai” [8].

Tóm lại, qua bài khảo luận “Giáo lí nghiệp qua lăng kính Devadaha Sutta” người viết hy vọng thông qua sự phê bình tà thuyết tiền mệnh của ngoại đạo Nigantha dưới góc nhìn tuệ giác của Phật giáo sẽ đem lại cái nhìn đúng đắn cho người đọc về giáo lí nghiệp. Từ đó, con người tự tin thực hiện ước mơ giải thoát cuộc đời mình khỏi mọi trói buộc của sầu, bi, khổ, ưu, não. Niềm tin vững chắc ấy là sức mạnh giúp hành giả làm sống dậy tinh thần lạc quan, yêu đời, có trách nhiệm với bản thân và hơn hết là tạo nhiều nhân duyên thiện lành đem đến kết quả lớn, lợi ích lớn cho mình, cho người.

 

Chú thích:

[1] Kinh Trung Bộ 2, Kinh Nhứt Dạ Hiền Giả số 131, tr.519.

[2] Kinh Trung Bộ 2, Kinh Devadaha số 101, tr.272.

[3] Kinh Trung Bộ 2, Kinh Devadaha số 101, tr.275.

[4] Kinh Tăng Chi Bộ (Tập I), VII. Phẩm Lớn, tr.221.

[5] Kinh Trung Bộ I, Đại Kinh Sư Tử Hống số 12, tr.110

[6] Kinh Trung Bộ II, Kinh Phân Biệt Về Sự Thật số 141, tr.591.

[7] Kinh Tăng Chi II, tr.77.

[8] Kinh Pháp Cú, phẩm Tự Ngã số 165.
(Văn Hóa Phật Giáo 370)


Chú thích của BBT về JAIN:

Kỳ Na giáo (chữ Hán: 耆那教) hay là Jaina giáo (tiếng Anh: Jainism), là một tôn giáo của Ấn Độ, một tôn giáo có hệ tư tưởng ngoài hệ thống thánh điển Kinh Vệ-đà, mặc dù trong số những vị mở đường ấy có Rsabha, Agitanàtha và Aritanemi; cả ba đều ở thời cổ đại và được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda.

Kì-na giáo là một trong những tôn giáo lâu đời trên thế giới.[1] Kì-na giáo do Mahavir (559 TCN - 527 TCN) sáng lập ra tại bắc Ấn Độ gần như là cùng thời với Phật giáo. Triết lý và phương thức thực hành của đạo dựa vào nỗ lực bản thân để đến cõi Niết Bàn. Trong một thời gian dài Kì-na là tôn giáo của vương quốc Ấn Độ và được truyền bá rộng rãi ở tiểu lục địa Ấn ĐộTôn giáo này đã suy yếu từ thế kỷ VIII do sự phát lên mạnh mẽ của các tín đồ đi theo đạo Hindu và đạo Hồi.[2][3]

Kì-na giáo là tôn giáo thiểu số ở Ấn Độ với 4,2 triệu tín đồ, và có một số nhóm nhỏ di cư đến Bỉ, Canada, Hồng Kông, Nhật Bản, Singapore, và Hoa Kỳ.[4] Tín đồ Kì-na giáo có trình độ biết chữ cao nhất trong bất kỳ cộng đồng tôn giáo nào khác ở Ấn Độ (94,1%),[5] và các thư viện bản thảo của họ là cổ nhất ở đất nước này.[6]

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17062)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13112)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17278)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21510)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13115)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14302)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12717)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13542)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28441)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23250)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34166)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28732)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32035)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11234)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 11903)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26133)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17245)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14429)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34308)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13025)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12195)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13304)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40362)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26793)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14373)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13146)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13361)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12424)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13030)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12202)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11694)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12474)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17554)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12112)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12644)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18336)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14168)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12886)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11217)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12043)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13384)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10744)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 10991)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10193)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28718)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25080)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26757)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25584)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18545)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 22872)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34330)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 31987)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30235)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30489)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 20854)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20097)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19292)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24280)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30487)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15583)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant