Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tứ Vô Úy Theo Quan Điểm Của Thành Thật Luận

11 Tháng Mười 202119:25(Xem: 3417)
Tứ Vô Úy Theo Quan Điểm Của Thành Thật Luận
Tứ Vô Úy Theo Quan Điểm Của Thành Thật Luận  

Thích Nữ
Liên Thảo

Để Ngộ Tông Chỉ Phật

Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào? Bộ phái căn bản là gì?” Đức Thế Tôn dạy: “Văn Thù, sau này đệ tử của Như Lai có 20 bộ phái, sự kiện này giúp cho sự tồn tại của pháp. Tất cả 20 bộ phái cùng được 4 đạo quả, 3 tạng của họ bình đẳng, không ai hơn kém, như nước biển cả toàn một mùi vị, như người có 20 đứa con.”

Đúng thật như thế, dù các bộ phái phân chia trong Phật giáo, nhưng mỗi bộ phái đều có một quan điểm riêng, căn bản vẫn là tìm sự hoàn thiện cho nhân loại, sự giải thoát đúng chánh pháp mà Phật đã dạy.

Ngài Ma-hê-bạc-ma là học trò của Nhất Thiết Hữu Bộ. Sau khi Phật nhập Niết bàn khoảng 900 năm, học xong Ngài nhận thấy Nhất Thiết Hữu Bộ không phát triển thêm được, Ngài muốn hoàn thiện hơn nên lập tư tưởng A-tỳ-đàm luận thư. Thành Thật Luận là một trong những bộ luận được Ngài tạo ra trong giai đoạn này.
Nội dung bộ luận bao hàm rất nhiều vấn đề như: Luận về Phật thân, vô ngã, thọ báo nghiệp… Tuy nhiên, ở đây Tứ vô úy là một tinh thần tự tại, vô ngạitrường hợp nào trong quá trình tu tậphành đạo cũng đều cần đến. Từ đặc tính Tứ vô úy đủ để thấy được tấm gương sáng của Đấng Cha lành, một hình ảnh tuyệt vời có một không hai trong lịch sử loài người, là Đấng Trượng phu cao tột, Đức Phật rất tự tại, luôn xuất hiện với chúng sanh bằng nụ cười hiền từ. “Như Lai đã thoát khỏi mọi trói buộc, dầu ở cảnh trời hay cảnh người. Các con cũng vậy, hỡi các Tỳ khưu, đã vượt ra khỏi mọi thằng thúc” (Mahàvagga I.10).

TIN PHẬT BẬC CÓ ĐỦ TỨ VÔ ÚY 

Đức Phật là một con người có nhân cách đặc biệt siêu phàm, có một không hai trong lịch sử của nhân loại. Một nhà văn hào châu Âu nhận định: “Không có nơi nào trong thế giới tôn giáo, sùng báitín ngưỡngchúng ta có thể tìm thấy một vị Giáo chủ chói sáng như thế! Trong hàng loạt các vì sao, Ngài là vì Tinh tú khổng lồ, vĩ đại nhất. Một số các khoa học gia, triết gia, các nhà văn hóa đã tuyên bố về Ngài “Con người vĩ đại nhất chưa từng có”. Ánh hào quang của vị Thầy vĩ đại này soi sáng cái thế giới đau khổtối tăm, giống như ngọn Hải Đăng hướng dẫn và soi sáng nhân loại” (Phật giáo dưới mắt các nhà trí thức) [1].

Hiểu chữ Phật là do chữ Phạn Bouddha phiên âm ra. Hán dịch là Giác giả, nghĩa là bậc Giác ngộ sáng suốt hoàn toàn về ba phương diện: Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn [2]. Vậy tin Phật là tin thế nào? Như trong Luận Đại Thừa Khởi Tín có nói: “Tin Phật là Bậc có vô lượng công đức, thường niệm (nghĩ, nhớ), gần gũi, cúng dường, cung kính, để phát khởi căn lành, mong cầu Nhất thiết trí” [3].

Chúng ta tin ở Phật là bậc Chân trí, đối trước Ngài, ta quyết định sanh tâm thanh tịnh, vì trí Phật đối với chúng sanh là cao cả. Ngài là người duy nhấtđủ khả năng để chỉ đường cho ta tìm về giải thoát mà thôi. Không tu theo Phật mà muốn được như Phật thì chẳng khác nào cát mà muốn nấu thành cơm, dầu nấu đến trăm ngàn kiếp cũng không khi nào nấu cho chín được.

Khi chưa ngộ, chúng ta phải có điểm trụ một cách đáng tin cậy, đó là gương sáng của Như Lai. Đồng thời, cũng nên biết rằng: Trong chúng ta, ai cũng có khả năng thành Phật. Có câu: “Lúc mê: Có Phật, có pháp. Lúc ngộ: Không Phật, không pháp. Vì ngộ chính là Phật, pháp vậy” [4]. Chúng ta nên xác nhận một cách trung thực rằng: Sự chứng ngộ chúng ta chưa có, mà chỉ biết qua lý thuyết của Kinh điển… mà thôi, thế lấy cớ gì chúng ta không tin có Phật?

Như trong Thành Thật Luận có nói; Đức Phật gọi là bậc Người tự nhiên, đem Nhất thiết chủng trí biết tất cả tự tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả điều lành, thường cầu lợi ích cho tất cả chúng sanh, nên gọi là Phật [5].

Thấy được Phật là bậc Tối thắng biết khắp, thân vô ngại tự tại, tức tự tại dung thông không chướng ngại, như các ánh sáng hòa cùng nhau trên một không gian rộng lớn, mà không hề trở ngại gì cả. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói: Do thân nghiệp của Phật hoàn toàn thanh tịnh, nên thân ấy có vô lượng tướng, tướng ấy có vô lượng tướng tốt, căn căn viên dung, khắp giáp tự tại, mười thân rõ khắp, không hoại, không tạp lẫn [6].

Đức Phật của chúng ta có đầy đủ mười danh hiệu [7], tám tướng thành đạo [8], mười vấn đề tự tại [9], tam minh, lục thôngthành tựu ngũ phần pháp thân [10], Tứ vô sở úy,…tin như thật như thế. Đồng thời, cũng tin rằng: Mình với Phật không có hai thể, chỉ do vô minh che lấp mà có thân chúng sanh, thân Phật phân biệt như thế thôi. Phải tin rằng: Mình có đủ khả năng thể nhập lại với tâm thường hằng thanh tịnh bằng những phương tiện mà Phật dạy qua Kinh điển. Bởi Phật là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.

TÌM HIỂU VỀ KHÁI NIỆM TỨ VÔ ÚY 

Tứ vô úy còn gọi là Tứ vô sở úy, là bốn sự tự tin; không sợ hãidũng mãnh, an ổn của chư Phật, chư Bồ tát khi thuyết pháp.

Tứ vô sở úy bao gồm:

1. Chư Pháp hiện đẳng giác vô úy. Nhất thiết trí vô sở úy, Chánh đẳng giác vô úy, đối với các pháp đều giác biết, trụ trong chánh kiến không khuất phục điều gì. Có sự tự tin, không sợ hãi. Chánh đẳng giác vô úy, lấy tập trí làm tánh, đồng thể với xứ vô xứ trí lực trong thập lực.

2. Nhất thiết lậu tận trí vô sở úy, còn gọi là Lậu vĩnh tận vô sở úy, tức là đoạn tận phiền não, nên không có sự sợ hãi đối với tất cả sự chướng ngại bên ngoài.

3. Khi gặp các chướng ngạihành pháp bất thối chuyển quyết định thành tựu, còn gọi là Thuyết pháp không chướng đạo vô úy. Nói rộng pháp tu hành về sự chướng ngại, đồng thời không sợ hãi đối với bất cứ một sự trở ngại nào.

4. Chứng nhứt thiết trí, xuất đạo như tánh thanh tịnh vô sở úy, còn gọi là Thuyết xuất đạo vô sở úy, Thuyết tận khổ đạo vô sở úy, xuất khổ đạo vô sở úy, xuất khổ đạo vô sở úy thuyết giảng đạo xuất thế, không hề sợ hãi điều gì.

Đức Phật từng nói với ngài Ca-diếp: “Này Ca-diếp, được nói là Sư tử, là chỉ cho Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác. Như Lai, khi ở giữa đại chúng tuyên bố chánh pháp một cách rộng rãi, tự tại, vô úy. Do đó được gọi là Sư tử. Thế nào, Ca-diếp, Như Lai khi rống tiếng Sư tử, lúc ấy không dũng mãnh sao? Chớ nghĩ như vậy. Như Lai ở giữa đại chúng cất tiếng rống Sư tử một cách dũng mãnh. Ca-diếp, ngươi bảo rằng Như Lai ở giữa đại chúng cất tiếng rống Sư tử một cách dũng mãnh, nhưng không thể thuyết pháp chăng? Chớ nghĩ như vậy. Vì sao? Như Lai ở giữa đại chúng cất tiếng rống Sư tử một cách dũng mãnhthuyết pháp một cách thiện xảo” [11].

Như Lai ở giữa đại chúng dũng cảm, Vô úycất tiếng rống sư tử, thuyết pháp một cách thiện xảo, những người đến hội thảy nhất tâm lắng nghe và hoan hỷ tín thọ, đồng thời thi thiết cúng dường. Họ cũng có thể sau đó cạo bỏ râu tóc, bận ba pháp y, xuất gia tu đạo, đạt cứu cánh phạm hạnh, đến chỗ an ổn, vô dư Niết bàn.

Vô úy chính là sự tự tại, dũng cảm, tự tin… biện tài vô ngại trước bất kỳ hoàn cảnh nào để thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh bình an, hoan hỷ, cúng dường, đồng thời có thể xuất gia tu tập hạnh giải thoát vậy. Đức Thế Tôn từ nhiều kiếp lâu xa đến nay tâm luôn hằng rộng lớn, các Ngài đã chứng đắc Nhứt thiết trí thì không làm sao khiếp nhược được. Nếu nói về kinh thơ, nghị luận… khéo dùng lời lẽ vô ngại biện tài, thiện xảo khéo léo, trí huệ vô lượng không ai có thể vượt qua Ngài. Nếu chọn về bốn điều Luật pháp là:

1. Trụ – Chánh – Báo
2. Thọ nhân và Phi nhân
3. Năng thọ thí dụ
4. Trụ trong luật pháp” [12].

Bốn điều trên Đức Như Lai không thể không có, chính vì vậy, dù là thiên nhơn tài giỏi đến mức nào, không ai có thể thắng được Ngài. Đức Phật nói có hai nghĩa đế: Đế thế và đệ nhất nghĩa. Đối với đệ nhất nghĩa đế thì người trí không thể thắng Phật, còn đối với kẻ tà đạo, phàm phu, vô trí thì Phật không cần đối đáp với họ. Phật không hề cùng người đời tranh cãi nên họ chẳng thể phá hoại được.

Thắng thế của Đức Phật là trong quá trình thuyết pháp hoặc gặp các nhà ngụy biện ngoại đạo, họ đa phần dựa vào luận thư mà bàn cãi. Nhưng Phật thì không như thế, Ngài sử dụng Chân Thật Luận, vì vậy không ai có khả năng phá hoại được Phật.

Về mặt Trí đứcĐoạn đức như đã nói trên, thì Phật đã chứng được Vô úy. Hơn thế, Ngài còn điều Vô úy nữa là nói pháp chướng đạo và nói đạo hết khổ, đấy là Trí đoạn cũng gọi là Nhất thiết trí vô úy. Pháp chướng đạo ở đây Phật nói chẳng hạn như Dục là chướng đạo, mà có người không chấp nhận như thế, đó là hạng người thiểu trí. Nhưng nếu hành giả tu tập mà không đoạn trừ được các pháp chướng đạo này thì không lấy đâu ra sự hạnh phúc, an vui chân thật.

TRƯỜNG HỢP SỬ DỤNG TỨ VÔ ÚY 

Tứ vô úy chính là hành trang, là áo giáp giúp cho Đức Phật cũng như những hành giả đứng vững trên mọi lĩnh vực, mọi hoàn cảnh để thuyết pháp lợi sanh. Ngài tùy cơgiáo hóa chúng sanh không quản ngại cho dù đó là những chúng sanh “cứng đầu” của ngoại đạo tà giáo cũng không lấy làm khó. Chỉ cần đủ duyên thì đều có thể làm được.

Trong Kinh Duy Ma, Bồ tát hành theo con đường của Phật chính là sử dụng Tứ vô úy để làm thông suốt đường đi của Phật. Làm thông suốt như thế nào? Theo những đường không phải nên đi thì gọi là thông suốt đường đi của Phật, tức là làm năm tội vô gián mà lại không quấy phá tức giận. Đến địa ngục mà lại không có dơ bẩn của tội ác, đến súc sanh mà lại không có ngu muội; đến Tu la mà lại không có kiêu ngạo; đến Ngạ quỉ mà lại hoàn thiện công đức. Đi theo đường đi cõi Sắc và Vô Sắc mà lại không cho là siêu việt. Thị hiện tham dục mà lại xa rời nhiễm trước. Thị hiện sân hận mà lại không tức giận chúng sanh. Thị hiện ngu si mà lại thuần hóa tâm tính bằng trí tuệ. Thị hiện tham lẫn mà lại xả bỏ của trong, của ngoài, tính mạng cũng không tiếc. Thị hiện phạm giới mà lại đứng yên trong tịnh giới, đến nỗi lỗi nhỏ cũng sợ lớn. Thị hiện giận dữ mà lại thường từ bi, ẩn nhẫn. Thị hiện biếng nhác mà lại nỗ lực tu tập công đức. Thị hiện loạn động mà lại thường xuyên chánh niệm, chánh định. Thị hiện ngu si mà lại thông suốt trí tuệ thế gian xuất thế. Thị hiện dua nịnh, dối trá mà lại khéo léo phương tiện, tùy theo ý nghĩa trong kinh. Thị hiện kiêu ngạo mà lại đối với chúng sanh thì in như cầu đường. Thị hiện phiền não mà lại tâm thường thanh tịnh. Thị hiện ma quân mà lại thuận với trí tuệ của Phật, không theo sự chỉ dạy của người khác. Thị hiện thanh văn mà lại nói cho chúng sanh những pháp chưa nghe. Thị hiện
duyên giác mà lại thành tựu đại bi, giáo hóa chúng sanh. Thị hiện bần cùng mà lại có bàn tay ngọc, công đức vô tận. Thị hiện thân hình tồi tàn mà lại đủ các tướng hảo để tự trang nghiêm. Thị hiện thấp hèn mà lại sanh trong dòng dõi của Phật, đủ mọi công đức. Thị hiện ốm yếu, xấu xí mà lại được thân Na la diên, chúng sanh ai cũng thích nhìn. Thị hiện già bệnh mà lại vĩnh viễn chặt đứt gốc rễ bệnh tật, vượt khỏi sự sợ hãi về sự chết. Thị hiệntài sản mà lại thường xét vô thường, thật sự không ham gì cả. Thị hiện có vợ, có thiếp, có thể nữ, mà lại thường rời xa bùn lầy năm dục. Thị hiện đần độn mà lại thành tựu hùng biện, nhớ hết không quên. Thị hiện sự cứu vớt theo tà pháp mà lại cứu vớt chúng sanh bằng chánh pháp. Thị hiện nhập vào sanh tử mà lại cắt đứt nhân tố sanh tử. Thị hiện nhập vào Niết bàn mà lại không cắt đứt sanh tử.

Đó là những thị hiện của chư Phật, chư Bồ tát tự tại vô ngại, ứng hóa khắp để phổ độ chúng sanh mà không hề dính mắc, như hoa sen mọc giữa bùn nhơ vậy.

HỌC VÀ HÀNH TỨ VÔ ÚY 

Nền tảng để hành giả học được Tứ vô úy

Hành giả muốn tu để đạt được Tứ vô úy, hẳn nhiên đòi hỏi chúng ta phải thực hiện những gì Phật làm để được có đủ công đức như chư Phật. Phật có công đức này thì hàng Thánh và phàm phu cũng đều có được. Có ba thứ chung với hàng Thánh, Thanh văn mà ai thực hành các hạnh sau đều có thể thành tựu:

Hạnh vô tránh: Lấy tục trí làm thể. Đây là hạnh khiến kẻ khác không vì duyên với thân mình mà sinh lòng tham giận… Hàng Thánh vô học quán thấy chúng sanh bị khổ là do phiền não, rồi tự nhìn lại thân ta đã ở hàng phước điền tối thắng, thế mà nếu có kẻ khác duyên vào thân ta sanh phiền não, tham, giận… thì đó là điều thật đáng đau xót. Nhờ suy nghĩ như vậy phát sinh trí tuệ, duyên vô tránh. Khi trí này phát sinh thì khiến cho kẻ khác không còn duyên nơi thân mình sinh ra tham, giận nữa.

Nguyện trí: Trước có nguyện sau mới dẫn sinh ra diệu trí. Khi vị Bất động A-la-hán muốn phát khởi nguyện trí này, thì trước phát lòng thành khẩn mong muốn biết đến cảnh giới cần biết, rồi tiếp tục cố gắng thuận, nghịch ra vào bốn Thiền, bốn Vô Sắc, định nhờ đó dẫn sanh Thánh trí đúng như sở nguyện, đối với cảnh giới cần biết, thì biết được rõ ràng, đúng như thật.
Bốn vô ngại giải: Pháp vô ngại giải, hiểu một cách quyết đoán, về ngôn giáo năng thuyên; Nghĩa vô ngại giải, hiểu một cách quyết đoán về nghĩa lý sở thuyên; Từ vô ngại giải, hiểu một cách quyết đoán về các loại ngôn từ, cú pháp; Biện vô ngại giải, hiểu một cách quyết đoán những ngôn thuyết phù hợp chánh lý, định tuệ khởi lên ngôn thuyết đó. Bốn vô ngại giải cũng lấy trí làm thể.

Ba công đức trên trong hàng Thanh văn cũng có, nhưng không rốt ráo thanh tịnh bằng Phật. Những công đức mà hàng phàm phu cùng có được như Phật là: Sáu Thông, bốn Tịnh lự, bốn Vô sắc, tám Đẳng chí, ba Tam ma địa, bốn Vô lượng tâm, tám Giải thoát, tám Thắng xứ, mười Biến xứ…

Tóm lại, nguyên nhân của giác ngộ không ngoài những trí có khả năng thành tựu và những công đức được thành tựu từ trí. Như vậy, trí tuệ đối với kết quả giác ngộ thật là chính yếu. Trí tuệ do từ sức gia hạnh hữu lậu dần dần phát đạt cho đến tận trí vô sinh trí, bèn chứng được các Thánh vị trong bốn hướng, bốn quả, cho nên nói trí tuệnguyên nhân gần của Thánh vị giác ngộ.

Tứ vô úy là cung bậc duy nhất để hành giả đứng ở quả vị giác ngộ

Từ ngàn xưa, các Đức Phậtquá khứ hay hiện tại đều là những bậc chứng đắc Tứ vô úy. Chư Phật tự tại phóng đại quang minh trùm khắp muôn ngàn thế giới độ tận tất cả chúng sanh. Giá như có một hành giả nào tu hành muốn thành chánh giác mà đối trước các duyên đều sanh lòng sợ hãi, không thể thuyết pháp, không thể vấn đáp Phật pháp với mọi người, như thế có thể thành tựu công đức Phật chăng? Không thể được. Vì sao? Bởi trong quá trình tu tập, chắc chắn sẽ có rất nhiều người đến vấn nạn, nhất là các nhà ngoại đạo. Chính vì vậy, hành giả không thể không nắm chắc Phật pháp và lại càng không thể rụt rè trước họ, Phật pháp phải được hoằng truyền cho tất cả chúng sanh, tiếp nối mạng mạch cho hậu thế… cho nên nói: “Tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức” là vậy.

Chúng ta tu tập, nếu không tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức, không tạo thiện nghiệp, không bỏ ác nghiệp, sám hối lỗi lầm xưa sao có thể gọi là tu được? Tu còn không được huống là thành tựu chánh giác, thật là xa vời. Nhưng nếu thực hành các thiện pháp, thực hiện Ba-la-mật trên mọi nẻo, thì hành giả đó đang tu tập để đạt Tứ vô úy vậy.

“Vị A-la-hán,tính khí an nhiên
Như đám đất lớn, không còn cuồng nộ
Như cột trụ to, không còn lay động
Như hồ nước sạch, không còn bùn dơ
Không còn luân hồi, là chính các vị” [13].

Được quả vị giác ngộ tức là bậc A-la-hán tối thắng, tự tại vô ngại dẹp bỏ tam độc: Tham, sân, si. Vững chãi, thảnh thơi, vô cùng thanh tịnh. Đó chính là Tứ vô úy đã thành tựu, tức đây là Đấng Đại giác. Vậy nên nói, Tứ vô úy là cung bậc duy nhất để hành giả đứng ở quả vị giác ngộ.

“Mặt trời chiếu sáng ban ngày. Mặt trăng rạng tỏ ban đêm
Nhung giáp và gươm đao, chói sáng nhà vua khi lâm trận
Lúc thiền định, hào quang chư Phạm Thiên chiếu sáng.
Nhưng ngày như đêm, Đức Phật rực rỡ, sáng lòa trong vinh hạnh”.
(Pháp Cú Kinh)

Có thể nói, Đức Như Lai là Đấng Đại giác, là bông hoa đẹp nhất, tỏa ngát hương thơm trong vườn hoa nhân, thiên. Hương thơm ấy tỏa khắp ba cõi, sáu đường, nơi nào có bước chân Ngài đến thì giáo pháp ngân vang trong tiếng Sư tử chúa, thậm thâm nhiệm mầu giải thoát. Dù là kẻ ác hay người thiện, không ai Ngài không độ. Sau khi ánh đạo vàng bừng tỏa, Ngài vận dụng sức Từ đi khắp nơi thuyết pháp, độ sanh với tinh thần Vô úy tự tại, Ngài chỉ rõ cho chúng sanh hướng đi đến giải thoát, nơi nào là đường dữ, Ngài dạy ta đừng đến, chỉ rõ pháp ngăn Đạo mà hướng đến Niết bàn.

Đức Thế Tôn đã chứng được Nhất thiết trí, Nhất thiết lậu tận, Năng nói chướng Đạo và Đạo hết khổ, đó là bốn Pháp để Ngài có đủ năng lực vô ngại tự tại, không sợ hãi bất cứ thứ gì. Đấy là hành trang để cho bất kỳ ai có khả năng tu hành và làm lợi ích chúng sanh. Chính vì thế, hàng hậu học chúng ta tuy là xuất gia nhưng gặp thời quá xa Đức Phật, kẻ thế trí biện thông thì quá nhiều, tham, sân, si thì chưa dẹp hết, giặc phiền não ngày đêm đe dọa, chuyện vô thường không tránh được ngày mai. Nếu chúng ta không tin, mà học hạnh Ngài, âu cũng khó đến bờ giải thoát.

Pháp Vô úy mà Ngài đạt được, chúng ta nên thực tập từ nội tâm đến hình thức, mong sao giáo nghĩa vô biên, thậm thâm vi diệu ấy thấm sâu vào tâm thức, giúp chúng con thực hành không lệch lạc. Đường về chánh giác còn xa, mà nghiệp lực quá ư dày đặc, tự lực khó thành, phải nương nhờ sức Tam bảo hộ trì. Hạnh Đại thừa nguyện theo Như Lai học tập những mong đạt Tứ vô úy, đem lợi lạc đến cho nhân loại đang chìm đắm trong sanh tử luân hồi khổ đau.

NCS. Liên Thảo

 

Chú thích:

* Liên Thảo: Nghiên cứu sinh.

[1] Thích Viên Giác (2000), Sự Vĩ Đại Của Đức Phật, Trang Nhà Đạo Phật Ngày Nay.
[2] Thích Thiện Hoa (2007), Phật Học Phổ Thông (quyển I), Nxb Tôn giáo, tr.58.
[3] Bồ tát Mã Minh – Thích Thanh Từ (2004), Luận Đại Thừa Khởi Tín giảng giải, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tr.285.
[4] Thích trí Tịnh (1973), Bồ Đề Đạt Ma Ngộ Tánh Luận, chùa Vạn Đức Thủ Đức ấn tống, tr.32.
[5] Thích Trí Nghiêm (dịch) (1970), Thành Thật Luận, Tỳ kheo Thích Đăng Quang ấn tống, tr.4.
[6] Kinh Hoa Nghiêm.
[7] Mười danh hiệu là: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
[8] Tám tướng thành đạo là: Giáng sinh, thọ thai, trụ thai, đản sanh, xuất gia, thành đạo.
[9] Mười vấn đề tự tại: Thọ, tâm, chúng cụ, nghiệp, sinh, thắng giải, nguyện, thần lực, trí, pháp.
[10] Ngũ phần pháp thân là: Giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.
[11] Kinh 25.Trường A Hàm, Lõa Hình Phạm Chí.
[12] Thích Trí Nghiêm (dịch) (1970), Sđd, tr.11.
[13] Thích Trí Quang (2001), Trích Pháp Cú Nam Tông, Nxb Tôn giáo, tr.461.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3572)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 4928)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6514)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3893)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 3996)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5224)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3685)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4406)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3449)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3828)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4290)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5290)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3737)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3826)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3766)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4693)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4423)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4152)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3733)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4490)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4071)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 5964)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4490)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4852)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4070)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4731)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5573)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3537)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 3941)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4504)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5173)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3060)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4637)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4445)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4182)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4656)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4387)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4500)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7094)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5094)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4891)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4491)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5518)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5177)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4064)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5884)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4594)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4783)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5367)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5476)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5688)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4906)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4259)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4572)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4605)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5766)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3238)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5163)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2865)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4037)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant