Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thấy Tháp Đa Bảo

04 Tháng Mười Một 202119:34(Xem: 3957)
Thấy Tháp Đa Bảo

Thấy Tháp Đa Bảo

Nguyễn Thế Đăng

Đức Phật A-di-đà

 











 
1. Tháp Đa Bảo

“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.

Từ xa xưa cho đến ngày nay, con người luôn luôn đi tìm chính mình, một cái gì vượt khỏi sống chết, đi tìm cánh cửa bất tử để thấy sau cánh cửa bất tử ấy cái chính mình thật sự là gì. Phật giáo có rất nhiều kinh điển, rất nhiều con đường đáp ứng cho nhu cầu tâm linh tối hậu ấy. Chính vì thế mà Phật giáo vẫn còn nơi trái đất này, khi tất cả những nhu cầu vật chấtý thức ngày nay đều được nền văn minh đáp ứng hầu như hoàn hảo.

Một ẩn dụ về thực tại tối hậu ấy là tháp Đa Bảo trong phẩm Hiện Bửu tháp, kinh Pháp Hoa. Đa Bảo là nhiều thứ quý báu, đó là Phật tánh mà mỗi chúng sanh đều có, hiện nằm trong tâm địa của chúng sanh. Trong phẩm này, Phật tánh ấy xuất hiện một cách hữu hình, cụ thể, để con người có thể nhìn thấy hoàn toàn, hầu ngộ và nhập.

Nơi nào có nói kinh Pháp Hoa, có tâm thức hướng đến sự thật của kinh Pháp Hoa thì tháp của Phật Đa Bảo xuất hiện:

“Trong cõi nước mười phương, bất cứ chỗ nào nói kinh Pháp Hoa, thì tháp của Phật Đa Bảo vì để nghe kinh mà vụt hiện ra trước mặt… Trong tháp có toàn thân Phật Đa Bảo”. (Phẩm Hiện Bửu tháp, thứ 11).

Bất cứ lúc nào, chỗ nào mà kinh Pháp Hoa được nói, có sự hiện diện sống động của kinh Pháp Hoa trong tâm thức, chỗ ấy lúc ấy có sự xuất hiện của tháp Đa Bảo với toàn thân Như Lai. Lúc nào, nơi nào có sự tin hiểu Pháp Hoa (phẩm Tín giải, thứ 4), có ý thức Pháp Hoa, thời gian ấy và không gian ấy có tháp Đa Bảo với toàn thân Như Lai hiện diện trước mặt.

Kinh diễn tả tháp Đa Bảo như sau:

“Lúc bấy giờ trước Phật có tháp bằng bảy báu, cao năm trăm do-tuần, ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần, từ dưới đất vọt lên trụ giữa không trung, được trang nghiêm bằng đủ các vật báu, năm nghìn bao lơn, ngàn muôn phòng ốc, vô số tràng phan, chuỗi ngọc, linh báu. Bốn mặt bay mùi hương chiên đàn đầy khắp thế giới”.

Tháp Đa Bảo từ dưới đất vọt lên nghĩa là tháp báu đã có sẵn trong tâm địa, đất tâm của chúng sanh, chỉ chờ tâm thức bắt đầu thấm nhuần ý thức Pháp Hoa bèn vọt lên trụ giữa hư không cho mọi người được thấy.

Bảy báu là bảy đại: đất, nước, gió, lửa, không, thức, kiến. Khi thành Phật như Phật Đa Bảo  thì bảy đại trở lại bản tánh thanh tịnh của chúng, tức là bảy báu. Cao năm trăm do-tuần là năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức. Ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần là hai mươi lăm cõi hữu. Tất cả những yếu tố tạo ra sanh tử luân hồi trong thật tướng của chúng là thanh tịnh, quý báuthiêng liêng. Tóm lại, tháp Phật Đa Bảopháp giới được thu nhỏ lại và nói lên sự thật “đã thành Phật từ lâu xa”.

Bảy đại, năm uẩn, hai mươi lăm cõi là tất cả vũ trụ, pháp giới. Tất cả pháp giới là tháp Phật Đa Bảo, với tất cả những trang nghiêm quý báu, âm thanh, mùi hương, ánh sáng. Pháp giới là tháp Phật Đa Bảo và mỗi sự vật trong pháp giới đều là tháp Phật Đa Bảo.

Trong tháp Đa Bảo, không chỉ có Phật quá khứ Đa Bảo, mà còn có cả Phật hiện tại Thích-ca “chia nửa tòa ngồi”. Trong tháp Đa Bảo hay trong pháp giới, chỉ có Phật thông suốt khắp cùng cả ba thời. Trong tháp Đa Bảo hay trong pháp giới, quá khứhiện tại, chỉ có hiện tại trùm khắp ba thời.

“Lúc bấy giờ cõi Ta-bà liền biến thành thanh tịnh, lưu ly làm đất, bảy báu trang nghiêm… tất cả thông làm một cõi nước Phật”.

Tất cả thời gian, không gian, các đại, các uẩn, các cõi, thông làm một cõi nước Phật, và Phật quá khứ thành một với Phật hiện tại. Sự việc tất cả thành một vị Phật tánh này được gọi là pháp giới Nhất Chân. Tất cả đều là một vị Phật tánh, nghĩa là đều “đã thành Phật từ lâu xa”.

Trong pháp giới Nhất Chân này, không có thời gian một bên không gian một bên, vật chất một bên tinh thần một bên, vật một bên tâm một bên, cái thiêng liêng cao cả một bên cái thấp kém trần tục một bên, sanh tử một bên Niết-bàn một bên. Tất cả đều là một pháp giới Nhất Chân.

“Khi ấy chư Phật đều ngồi kiết già trên tòa, như thế đầy khắp cả thế giới tam thiên đại thiênphân thân của Phật Thích-ca ở một phương vẫn chưa hết”.

Phật đầy khắp cả thế giớithế giới vẫn chưa thể chứa hết. Nói cách khác, pháp giới thì đầy đặc Phật từ thế giới rộng lớn cho đến những vi trần và khoảnh khắc sát-na.

Một câu chuyện về tháp Đa Bảo: Đại sư Nhật Liên (1222-1282) là người sáng lập Nhật Liên tông Nhật Bản dựa trên kinh Pháp Hoa. Khi bị vua đày ra đảo và cho người ra ám sát, ngài nói với người cầm kiếm, “Tháp Đa Bảo là ông, và ông là tháp Đa Bảo. Loại trừ ông ra, ta không có tháp Đa Bảo”. Người ấy bèn buông kiếm, xin làm đệ tử của ngài.

Thấy mọi người, mọi vật là tháp Đa Bảo, đây là cái thấy biết của thành tựu giả Pháp Hoa.
2. Làm thế nào để thấy tháp Đa Bảo

Tháp Đa Bảo ở nơi tâm địa, nơi nền tảng của tâm, cho nên để thấy nó, tâm phải trở về bản tánh nền tảng của nó. Bản tánh nền tảng của tâm chính là tánh Không, cho nên khi tâm trở về nền tảng tánh Không của nó, thì sẽ thấy tháp Đa Bảo trụ giữa hư không.

Việc đưa tâm trở về bản tánh Không của nó để thấy thực tại tối hậu được nói trong các kinh, như kinh Kim Cương nói, “Thấy tất cả tướng chẳng phải là tướng, tức thấy Như Lai”.

Một vị Phật muốn đem toàn thân Như Lai trong tháp Đa Bảo chỉ bày cho bốn chúng, phải nhóm lại các phân thân, tức là các Hóa thân, tại chỗ ấy. nghĩa là phải gom tất cả Hóa thân về Pháp thân thì toàn thân Như Lai mới hiển lộ hoàn toàn. Gom tất cả Hóa thân là gom tất cả thức, căn, trần đang chiếu hiện nơi thế giới về trở lại Pháp thân, thì với thần lực trọn vẹn ấy mới: “dùng ngón tay phải mở cửa tháp báu, thấy toàn thân Phật Đa Bảo”.

Sau đó Phật Đa Bảo quá khứ chia nửa tòa ngồi với Phật Thích-ca hiện tại, và tất cả đại chúng đã được đưa lên hư không đều thấy Phật là bình đẳng, đồng nhất trong suốt cả ba thời. Nói cách khác, tất cả ba thời chỉ là một Phật không phân cách. Toàn thân Như Lai lúc ấy không chỉ là toàn thân Như Lai Đa Bảo, mà là toàn thân của tất cả Như Lai.

Gom tất cả phân thân là gom tướng trở về tánh, về Một Tướng Vô Tướng, khi ấy Ba thân Phật là một, không tách rời; đây là toàn thân Như Lai. Pháp thântánh Không, Báo thânHóa thân là tất cả tướng từ Pháp thân lưu xuất. Gom được các tướng về Pháp thân tánh Không thì các tướng trở thành chính Pháp thân thanh tịnh. Các tướng không biến mất mà hiển hiện một cách thanh tịnh trong Pháp thân tánh Không. Không và sắc không loại trừ nhau. Không là nền tảng của sắc, và sắc là biểu hiện của Không, như kinh Bát-nhã nói, “sắc tức là Không, Không tức là sắc”.

Pháp thântánh Không, đây là Chân Không. Báo thânHóa thân thuộc về sắc tướng, đây là Diệu Hữu. ba thân là một tức là Chân Không Diệu Hữu.

Xoay tất cả hiện hữu trở về Nhất Tâm, khi ấy người ta tin hiểu điều nói trong kinh Hoa Nghiêm: “Tâm, Phật, chúng sanh; cả ba không sai khác”.

Tóm lại, để thấy được thực tại Chân Không Diệu Hữu được biểu trưng bằng tháp Đa Bảo với toàn thân Như Lai trong đó, trước hết cần có niềm tin. Tin chính là “thần lực Như Lai đưa đại chúng lên hư không và ở tại đó”.

Thứ hai, để ở được giữa hư không, tâm chúng ta phải trụ nơi tánh Không như hư không. Và thứ ba, chúng ta phải gom tất cả cuộc sống của mắt tai mũi lưỡi thân ý về một chỗ Nhất Tâm rỗng rang như hư không ấy.

Thấy được thực tại Chân Không Diệu Hữu tức là có thể “thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường, giảng nói” kinh Pháp Hoa.

Người trì được kinh này
Thời là đã thấy ta
Cũng thấy Phật Đa Bảo
Và các Phật phân thân…
Người trì được kinh này
Nơi nghĩa của các pháp
Danh tựngôn từ
Ưa nói không cùng tận
Như gió trong hư không
Tất cả không chướng ngại.
(Phẩm Như Lai thần lực, thứ 21)

(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 247)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1616)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1612)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1008)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1480)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1463)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1641)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1909)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1488)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1328)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1345)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1516)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1117)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1241)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1245)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1674)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1623)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2914)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1798)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1353)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1207)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1264)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1380)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1298)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1897)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1649)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1863)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1795)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2369)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1773)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2101)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2169)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2282)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1829)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1948)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2001)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1916)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2566)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1916)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1851)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1922)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1866)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2131)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2270)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1944)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2049)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1835)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1883)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2390)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2302)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3916)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2451)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3153)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2441)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2029)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1783)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3286)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2326)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3000)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2677)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant