Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tâm Là Gì?

16 Tháng Mười Một 202119:50(Xem: 4180)
Tâm Là Gì?
TÂM LÀ GÌ?

Alexander Berzin
Matt Lindén

Làm Thế Nào Để Có Một Đời Sống Đạo Đức

Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.

Khái niệm về “tâm” thì mơ hồ, và các ngôn ngữ khái niệm hóa nó theo cách khác nhau. Trong nhà Phật, chữ tâm theo tiếng Phạn là chitta, hàm chứa nhiều ý nghĩa. Nó bao gồm nhận thức giác quan, ý tưởng bằng lời nóiý tưởng trừu tượng, tình cảm, cảm giác hạnh phúcbất hạnh, sự chú ý, tập trung tinh thần, trí thông minh và nhiều hơn nữa. Khi nói về tâm thì đạo Phật đề cập đến tất cả các dạng hoạt động tinh thần.

Trọng tâm không phải là nền tảng vật chất như bộ óc, hệ thống thần kinh, kích thích tố (hormones) và v.v…., cũng không phải là hoạt động hóa chất hay điện liên quan trong đó. Đạo Phật không phủ nhận bất cứ yếu tố nào kể trên, bởi vì đương nhiên là chúng hiện hữu, và góp phần một cách tổng thể. Tâm cũng không đề cập đến “điều gì” phi vật chất ngự trị trong bộ óc và tạo ra hoạt động của nó. Hơn nữa, đạo Phật không xác nhận một tâm thức vô thức tập thể hay phổ quát.

Hoạt Động Tinh Thần Là Gì?

Nếu như tâm và hoạt động tinh thầnkinh nghiệm cá nhân, chủ quan về điều gì, vậy thì nổi giận có nghĩa là gì, chẳng hạn vậy? Nó là sự phát khởi của sự giận dữcảm giác về nó, xảy ra cùng một lúc. Chúng cùng nhau mô tả một sự kiện trong một dòng tương tục, kinh nghiệm điều gì đó. Kinh nghiệm của ai? Nếu tôi nổi giận thì đó là kinh nghiệm của tôi, không phải của bạn, nhưng không có một cái tôi riêng rẽ bấm nút giận trên cái máy gọi là “tâm” – chúng ta chỉ đơn thuần là một phần của sự kiện kinh nghiệm.
tao

Điều này tương tựa như khi ta thấy một cái gì đó, như trái táo. Từ sự hiểu biết của khoa học thì các tia sáng đi vào mắt qua giác mạc, gặp gỡ các tế bào tiếp thu hình ảnh của võng mạc. Điều này tạo ra xung lực truyền tải thông tin quang học đến bộ não, nơi nó được xử lý. Kinh nghiệm chủ quan của điều này là sự xuất hiện của tâm ảnh ba chiều của quả táo, và đây là ý nghĩa của việc nhìn thấy nó. Tuy nhiên, tâm không phải là không gian trống rỗng ở đâu đó trong não mà từ trong đó, hình ảnh ba chiều của quả táo phát sinh, như được gợi ý từ sự diễn đạt "có cái gì đó trong tâm trí".
Tâm ảnh ba chiều cũng có thể là biểu hiện của âm thanh, mùi hương, vị nếm và cảm giác thân thể, thậm chí trong trí tưởng tượng và chiêm bao của chúng ta.  Hình ảnh của sự phát sinh của một tâm ảnh ba chiều còn có thể mô tả sự phát sinh của cảm xúc và các mức độ hạnh phúc hay bất hạnh, dựa vào sự bài tiết của kích thích tố từ các bộ phận khác của bộ não. Vào bất cứ lúc nào, nội dung của tâm ảnh ba chiều của chúng ta là sự phức tạp của nhiều yếu tố: một đối tượng, chẳng hạn như một hình ảnh hay tư tưởng, với sự kết hợp của cảm xúc, cộng thêm mức độ nào đó của cảm giác hạnh phúc hay bất hạnh.
Khoa Học Thần KinhPhật Giáo

Từ khi Đức Dalai Lama và nhà thần kinh học Francisco Varela người Chile khánh thành Mind and Life Institute (Viện Tâm ThứcĐời Sống) năm 1987 thì các nhóm khoa học gia quốc tế và các bậc thầy uyên bác trong đạo Phật đã khảo sát sự giao thoa giữa tâm và bộ não. Các nhà thần kinh học đã theo dõi hoạt động não bộ của những thiền sinh mới và các thiền sinh có nhiều kinh nghiệm, cho thấy việc thiền định lâu dài ảnh hưởng đến tính khả biến thần kinh (neuroplasticity) của bộ não, tạo ra những đường dây thần kinh mới, giúp cho việc tập trung tinh thần và phát triển cảm xúc tích cực như lòng bi trở nên dễ dàng hơn.

Cho đến nay, các phát hiện của khoa học phương Tây và Phật giáo đã bổ sung cho nhau và giúp cho cả hai lãnh vực trở nên phong phú hơn, và sự hợp tác giữa các hành giả đạo Phật và các nhà khoa học ưu tú là dấu hiệu của điều mà Đức Dalai Lama kêu gọi, đó là Phật giáo thế kỷ 21.

Hoạt động tinh thần của việc trải nghiệm cuộc sống là điều mà Phật giáo cho là "tâm thức." Hoạt động này thay đổi trong từng khoảnh khắc và luôn có các tâm sở (mental factors) đi kèm theo. Phật giáo dạy rằng chúng ta không phải là nạn nhân của bất cứ điều gì mà cuộc sống đem đến cho mình, mà đúng hơn là chúng ta đóng một vai trò toàn diện trong cách mình trải nghiệm cuộc sống và những gì mình sẽ kinh nghiệm. Nhờ cách luyện tâm, ta có thể triệt để chuyển hóa kinh nghiệm của mình để chúng trở thành tốt đẹp hơn, và với nỗ lực lâu dài, sự thay đổi tích cực này sẽ trở nên dễ dàng, không cần nỗ lực.

(Theo Study Buddhism by Alexander Berzin)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 138)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 165)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 219)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 148)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 200)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 181)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 221)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 235)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 316)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 421)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 434)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 529)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 717)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 765)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 788)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 797)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 671)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 681)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 791)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 812)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 907)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 674)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 582)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 679)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 801)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 690)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 787)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 810)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 793)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 837)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 851)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1040)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1577)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 920)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1085)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1081)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1228)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1507)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1938)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1053)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1314)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1061)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 914)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1039)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1076)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1235)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1253)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 989)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1147)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant