Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhấn Mạnh Việc Quan Sát Hơi Thở Tự Nhiên?

23 Tháng Mười Một 202119:53(Xem: 3513)
Nhấn Mạnh Việc Quan Sát Hơi Thở Tự Nhiên?
Nhấn Mạnh Việc Quan Sát Hơi Thở Tự Nhiên?

 Thiền Sư S.n. Goenka
Buông Xả Hơn Thua Nhưng Không Im Lặng

Why do you give so much importance to the observation of normal respiration? – Tại sao ngài nhấn mạnh việc quan hơi thở tự nhiên?

Goenkaji: Because the Buddha wanted you to. He is very clear that one must observe the breath as it is-yathabhuta. If it is long, you are aware, “it is long”; if it is short, you are aware, “it is short”. Yathabhuta. If you make your respiration unnatural, artificial, you will give more attention to change the respiration according to your wishes. Your attention will not be with the reality as it is, but with something that you have created.

Goenkaji: Bởi vì đó là ý của Đức Phật. Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn. Yathabhuta. Nếu hơi thở của bạn không tự nhiên, bạn sẽ cố ý để thay đổi hơi thở theo mong muốn của bạn. Sự cố ý đó của bạn sẽ không phải là với thực tế như nó đang là, mà là một thứ gì đó mà bạn tự tạo ra.

 

Therefore, we emphasize it must be always natural breath-as it comes in naturally, as it goes out naturally. If it is long, just be aware that it is long. Don’t try to make it short. If it is short, just be aware that it is short. Don’t try to make it long. If it is going through the right nostril, then observe that it is going through the right nostril. If it is going through the left nostril, then observe it through the left nostril. When it passes through both the nostrils, observe the flow through both the nostrils.

 

Do đó, chúng tôi nhấn mạnh nó phải luôn luôn là hơi thở tự nhiênđi vào một cách tự nhiên, đi ra một cách tự nhiên. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài. Đừng cố làm chậm hơi thở. Nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn. Đừng cố kéo dài hơi thở. Nếu hơi thở đi qua lỗ mũi bên phải, hãy quan sát rằng nó đang đi qua lỗ mũi phải. Nếu hơi thở đi qua lỗ mũi bên trái, hãy quan sát nó đi qua lỗ mũi trái. Nếu hơi thở đi qua cả hai lỗ mũi, hãy quan sát hơi thở qua cả hai lỗ mũi.

 

Then you are working according to the instructions of the Enlightened One. Don’t try to interfere with the natural flow of the breath. And if you find that the mind is wandering too much and you cannot feel the natural breath, then you may take a few-only a few-intentional breaths, slightly hard breaths, so that you can bring your mind back to the observation of the breath. You have to keep in mind that your aim is to feel the natural breath. However soft it is, however subtle it is, you must be able to feel it. That is the aim.

 

Hãy làm theo hướng dẫn của Bậc giác ngộ. Đừng cố can thiệp vào dòng chảy tự nhiên của hơi thở. Nếu bạn thấy rằng tâm trí đang lang thang quá nhiều và bạn không thể cảm nhận được hơi thở tự nhiên, thì bạn có thể lấy một vài hơi – chỉ một vài – hơi thở có chủ ý, hơi thở mạnh một chút, để bạn có thể đưa tâm trí trở lại việc quan sát hơi thở. Bạn phải ghi nhớ rằng mục đích của bạn là cảm nhận hơi thở tự nhiên. Tuy hơi thở rất nhẹ, tuy hơi thở rất tinh tế, bạn phải cảm nhận nó. Đó là mục tiêu của chúng ta.

 

Why do you want us to keep our attention at the entrance of the nostrils and above the upper lip while practicing Anapana? – Tại sao ngài muốn chúng tôi đưa sự chú tâm vào bên ngoài cửa mũi và trên môi trên trong khi thực hành Anapana?

 

Goenkaji: Because again, it is a very clear instruction given by the Enlightened One. In Patisambhidamagga, he clearly says that you must be aware of the incoming breath, the outgoing breath, and mukha – this area above the mouth. He calls it mukhanimitta. It is clearly explained in Patisambhidamagga and in Vibhanga, what is mukhanimitta: it means nasikagge, the front portion of the nose at the entrance of the nostrils. Also, the Buddha says that it must be Uttarotthassa majjhimappadese. Uttara means above; ottha is lip; and majjimappadese is the middle portion. And in the Mahasatipatthana sutta, he says, establish your awareness here, parimukham satim upatthapetva. Sati means awareness; parimukham means the area above the lips.

 

Goenkaji: Đó là một chỉ dẫn rất rõ ràng được đưa ra bởi Bậc giác ngộ. Trong cuốn Patisambhidamagga, ngài nói rõ ràng rằng bạn phải nhận thức được hơi thở đi vào, hơi thở đi ra và mukha – ở khu vực trên môi trên. Ngài gọi đó là mukhanimitta. Nó được giải thích rõ ràng trong Patisambhidamagga và Vibhanga, mukhanimitta là: phần phía trước cửa mũi. Ngoài ra, Đức Phật nói rằng đó phải là Uttarotthassa majjhimappadese. Uttara có nghĩa là ở trên; ottha là môi; và majjimappadese là phần giữa. Và trong bài kinh Mahasatipatthana, ngài nói, hãy đưa sự chú tâm của bạn vào đó, parimukham satim upatthapetva. Sati có nghĩa là nhận thức; parimukham có nghĩa là khu vực trên môi trên.

 

The Buddha is so clear in his instructions. We cannot deviate from his instructions. And as you practice, it becomes very clear why the Buddha chose this small area. This is the area over which the incoming breath and the outgoing breath must pass. The incoming and outgoing breath touches the area at the entrance of the nostrils and above the upper lip. That is why he wanted you to keep your attention here. For those with long noses, the breath is likely to touch the entrance of the nostrils. For those with short noses, it usually touches the area above the upper lip. So he chose this area-either at the entrance of the nostril, nasikagge, or the middle part of the upper lip.

 

Đức Phật chỉ rất rõ ràng. Chúng ta không thể làm khác đi. Và khi bạn thực hành, bạn sẽ hiểu tại sao Đức Phật chọn khu vực nhỏ này. Đây là khu vực mà hơi thở đi vào đi ra. Hơi thở đi vào đi ra chạm vào khu vực cửa mũi và phía trên môi trên. Đó là lý do tại sao ngài muốn bạn giữ sự chú tâm của bạn ở đây. Đối với những người có mũi dài, hơi thở có thể chạm vào lối vào của cửa mũi. Đối với những người có mũi ngắn, nó thường chạm vào khu vực phía trên môi trên. Vì vậy, ngài đã chọn khu vực này – ở khu vực cửa mũi, chóp mũi, hoặc phần giữa của môi trên.

 

The Buddha does not want us to imagine that the breath is coming in or the breath is going out, you must actually feel it. When you are attentive, you can feel its touch somewhere in this area.

 

Đức Phật không muốn chúng ta tưởng tượng hơi thở đi vào hoặc hơi thở đi ra, bạn phải thực sự cảm nhận được nó. Khi bạn chú ý, bạn có thể cảm thấy cảm giácđâu đó trong khu vực này.

 

For a very new student, we say even if you feel the breath inside the nostrils, it is okay. But ultimately you have to be aware of the touch of the breath in this area. Why? Because for samadhi, concentration of mind, citta ekaggata [one-pointedness of the mind] is very important. For a new student, a bigger triangle including the whole area of the nose is okay. But within a day or two, the student is asked to observe a smaller area. It becomes very clear, as you keep on progressing on the path given by the Buddha, that the area of concentration must be as small as possible.

 

Đối với một thiền sinh mới, ngay cả khi bạn cảm thấy hơi thở bên trong lỗ mũi thì vẫn không sao cả. Nhưng cuối cùng bạn phải nhận thức được sự xúc chạm của hơi thở trong khu vực này. Tại sao? Bởi vì đối với samadhi, sự định tâm, citta ekaggata (giữ tâm an trụ tại một điểm) là rất quan trọng. Đối với một thiền sinh mới, thì bạn có thể quan sát khu vực tam giác lớn hơn ở xung quanh mũi. Nhưng sau một hoặc hai ngày, thiền sinh được yêu cầu quan sát một khu vực nhỏ hơn. Điều này trở nên rất rõ ràng, khi bạn tiếp tục tiến bộ trên con đường do Đức Phật chỉ dạy, khu vực tập trung phải càng nhỏ càng tốt.

 

It also becomes clear that the object of concentration must be very subtle. That is why when the mind is wandering too much, you are allowed to take a few hard breaths, but after that, you must come back to the natural breath. And as your mind gets concentrated, the breath will become softer and softer, finer and finer, shorter and shorter. You won’t have to make any effort. It happens naturally. Sometimes the breath becomes so short, so fine, like a thin thread, that it feels as if immediately after coming out it makes a U-turn and enters the nostrils again. So when the area is small, the object of concentration is very subtle, and you continue without interruption, the mind becomes very sharp.

 

hiển nhiên đối tượng của sự tập trung phải rất tinh tế. Đó là lý do tại sao khi tâm trí đi lang thang quá nhiều, bạn được phép hít một vài hơi thật mạnh, nhưng sau đó, bạn phải trở lại với hơi thở tự nhiên. Và khi tâm trí của bạn được tập trung, hơi thở sẽ trở nên nhẹ nhàng, mềm mại hơn, tinh tế hơn, ngắn hơn và ngắn hơn nữa. Bạn không cần phải gắng gượng ép. Điều này xảy ra một cách tự nhiên. Đôi khi hơi thở trở nên rất ngắn, rất vi tế, giống như một sợi chỉ mỏng, cảm giác như thể ngay lập tức sau khi đi ra, nó liền quay lại vào lỗ mũi một lần nữa. Vì vậy, đối với một khu vực nhỏ hơn, sẽ dẫn đến sự tập trung rất tinh tế, và nếu tiếp tục không bị gián đoạn, tâm trí trở nên rất nhạy bén.

 

The Buddha was sabbaññu – he knew everything so clearly. There is an important nerve centre in this area. When your mind is sharp and you are aware of this area, your mind becomes so sensitive that you start feeling some sensation in this area. The purpose of Anapana, the purpose of samadhi, is to take the next step of Vipassana. Vipassana is not Vipassana if you don’t feel sensations.

 

Đức Phật là sabbaññu (Bậc Toàn Giác) – Ngài biết mọi thứ rất rõ ràng. Có một trung tâm thần kinh quan trọng tại khu vực này. Khi tâm trí của bạn sắc bén và bạn nhận thức được khu vực này, tâm trí của bạn trở nên nhạy bén đến mức bạn bắt đầu cảm thấy một số cảm giác tại khu vực này. Mục đích của Anapana (quan sát hơi thở ra vào), mục đích của Samadhi, là tạo nền tảng cho Vipassana. Vipassana không phải là Vipassana nếu bạn không cảm nhận được cảm giác.

 

Therefore, he taught us in a very systematic manner. Start on a small area with the natural breath. The breath will become subtler and subtler; the mind will become sharper and sharper. This area will become very sensitive and you will start feeling sensations. Everywhere around the world, people coming to the courses and practicing the technique given by the Enlightened One, start feeling sensations in this area on the second or third day. The Buddha taught the technique, the path, very systematically. We don’t want to deviate from what he taught.

 

Ngài đã dạy chúng ta một cách rất có hệ thống. Bắt đầu tại một khu vực nhỏ với hơi thở tự nhiên. Hơi thở sẽ trở nên tinh tếtinh tế hơn; tâm trí sẽ trở nên sắc bén và sắc bén hơn. Khu vực này sẽ trở nên rất nhạy bén và bạn sẽ bắt đầu cảm thấy những cảm giác. Ở khắp mọi nơi trên thế giới, mọi người đến các khoá thiền này và thực hành kỹ thuật được đưa ra bởi Bậc giác ngộ, và họ bắt đầu cảm thấy những cảm giác ở khu vực này vào ngày thứ hai hoặc thứ ba. Đức Phật đã dạy kỹ thuật, con đường này một cách rất có hệ thống. Chúng tôi không muốn đi chệch khỏi những gì Đức Phật đã dạy.

 

Coming back to the first question of why we work with the natural breath – there are other techniques especially in India where one controls the breath, for example, the technique of Pranayama. One takes a deep breath and stops for some time; one exhales and stops for some time. We don’t condemn other techniques. We understand that Pranayama is good for physical health. But the Buddha wanted us to use the awareness of the natural breath to reach the next step of feeling sensations. This controlled breathing, Pranayama, is not suitable because it is artificial breath.

 

Quay trở lại câu hỏi đầu tiên về lý do tại sao phải là với hơi thở tự nhiên – có những kỹ thuật khác đặc biệt là ở Ấn Độ nơi người ta điều khiển hơi thở, ví dụ, kỹ thuật của Pranayama. Người ta hít một hơi thật sâu và dừng lại một lúc; thở ra và dừng lại một lúc. Chúng tôi không lên án các kỹ thuật khác. Chúng tôi hiểu rằng Pranayama tốt cho sức khỏe thể chất. Nhưng Đức Phật muốn chúng ta sử dụng nhận thức về hơi thở tự nhiên để đạt được bước tiếp theo là cảm nhận cảm giác giác. Hơi thởkiểm soát này, Pranayama, không phù hợp vì đó là hơi thở nhân tạo.

 

Buddha wanted us to observe natural breath because it takes us to the stage where we can practice Vipassana. Those who want to practice Pranayama for health reasons, let them practice it separately. Don’t connect it with Vipassana. When you practice Vipassana, natural breath is important, yathabhuta, as it is.

 

Đức Phật muốn chúng ta quan sát hơi thở tự nhiên vì nó đưa chúng ta đến giai đoạn mà chúng ta có thể thực hành Vipassana. Những người muốn thực hành Pranayama vì lý do sức khỏe, hãy để họ thực hành theo cách của họ. Đừng kết nối nó với Vipassana. Khi bạn thực hành Vipassana, hơi thở tự nhiên rất quan trọng, yathabhuta, như nó đang là.

 

Why should we work with respiration only? – Tại sao chúng ta chỉ nên làm việc với hơi thở?

 

Goenkaji: Respiration is the truth. Respiration is related to your mind and matter, and you are here to make an analytical study of mind and matter. So you start with respiration, and then go to a deeper level of mind and matter.

 

Goenkaji: Hơi thởsự thật. Hơi thởliên quan đến tâm trí và cơ thể của bạn. Bạn ở đây để thực hiện một nghiên cứu phân tích về tâm trí và cơ thể. Vì vậy, bạn bắt đầu với hơi thở, và sau đó đi đến một mức độ sâu hơn của tâm trí và cơ thể.

Nguồn VRIDhamma.org

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30636)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 20999)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20184)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19407)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24365)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30637)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15665)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27767)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19751)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15556)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23213)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23534)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17503)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15672)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21851)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37967)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22096)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23212)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21313)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28403)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32519)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25153)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34657)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22919)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27683)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31272)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13588)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25142)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27783)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22064)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20719)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22206)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27090)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24114)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21877)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14701)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23128)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 23996)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21082)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14186)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19919)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22486)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14056)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28011)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22794)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28175)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10972)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28479)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31545)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26151)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14915)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28026)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7414)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25330)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20690)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21112)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12224)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11896)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12789)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26627)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant