Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người Huyễn Làm Việc Huyễn

26 Tháng Mười Một 202120:07(Xem: 2356)
Người Huyễn Làm Việc Huyễn

NGƯỜI HUYỄN LÀM VIỆC HUYỄN

Nguyễn Thế Đăng

 
Công Đức Chiêm Bái Phật Tích


Người thực hành Trí huệ toàn thiện (Bát nhã ba la mật) quán thấy tất cả pháp là Không, như mộng, như huyễn, như hóa… cho đến chúng sanh cũng rốt ráo bất khả đắc:

 

Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác. Đại Bồ tátchúng sanh ấy mà đại trang nghiêm.

Vì sao thế? Vì người làm (tác giả) bất khả đắc vậy.

Này Tu Bồ Đề! Trí nhất thiết chủng chẳng phải là pháp tạo tác, sanh khởi, chúng sanh ấy cũng chẳng phải là pháp tạo tác, sanh khởi. Vì sao thế? Vì sắc chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác, thọ tưởng hành thức chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Mắt chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, cho đến ý chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác. Sắc cho đến pháp, nhãn thức cho đến ý thức, nhãn xúc cho đến ý xúc, làm nhân duyên sanh thọ chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Ngã, nhân cho đến người biết, người thấy, chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác.

Vì sao thế? Vì các pháp rốt ráo bất khả đắc vậy.

Tu Bồ Đề! Mộng chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Vì sao thế? Vì rốt ráo bất khả đắc. Huyễn, vang, bóng, sóng nắng, biến hóa chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy…

Tu Bồ Đề! Pháp Như, pháp tướng, pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, thật tế chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy. Bồ tát chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy. Nhất thiết tríNhất thiết chủng trí chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy.

Tu Bồ Đề! Do nhân duyên ấy nên Nhất thiết trí chẳng phải pháp tạo tác, sanh khởi, chúng sanh ấy cũng chẳng phải pháp tạo tác, sanh khởi. Đại Bồ tátchúng sanh ấy mà đại trang nghiêm”.

(Phẩm Trang Nghiêm, thứ 17).

 

Công việc của Bồ tát, theo tất cả các kinh điển Đại thừa là “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”. Ở đoạn kinh này “đại trang nghiêm” có nghĩa như vậy. Bồ tát thực hành Trí huệ soi thấy tánh Không của tất cả các pháp, an trụ trong tánh Không ấy mà giảng nói cho chúng sanh về tánh Không để giải thoát cho họ.

Tánh Khôngthật tướng của tất cả các pháp thế gianxuất thế gian: “Trí nhất thiết chủng chẳng phải là pháp làm ra, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp làm ra”. “Pháp tạo tác, pháp làm ra” là pháp hữu vi, pháp hợp tạo. Tánh Không chẳng phải là pháp hữu vi, pháp hợp tạo, chẳng phải là do duyên sanh. Thiền định thiền quán “cái chẳng phải là pháp làm ra” là thiền định thiền quán tánh Không.

Tất cả các pháp thế gianxuất thế gian đều chẳng phải là pháp tạo tác, sanh khởi, nên tất cả các pháp đều là tánh Không.

Chẳng phải pháp tạo tác, chẳng phải pháp sanh khởi, đây nói về phương diện vô sanh của tánh Không.

Sắc chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Mộng, huyễn, vang, bóng, sóng nắng, biến hóa chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác”. Cho đến các pháp xuất thế gian, “pháp Như, pháp tướng, pháp tánh, thật tế, nhất thiết trí, nhất thiết trí chủng trí chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác”. Ở trước chỉ nói chẳng phải tạo tác, sanh khởi, ở đây lại nói thêm “chẳng phải không tạo tác”. Chúng ta cần phải hiểu như thế nào?

Chẳng phải tạo tác, sanh khởitánh Không, một tánh Không không sanh, không có tướng, không có sự xuất hiện. Nhưng tánh Không không chỉ có phương diện không sanh, mà còn có phương diện “chẳng phải không tạo tác”, nghĩa là phương diện tạo tác, làm ra, có sanh khởi, có tướng, có xuất hiện. Đó là điều Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Tánh Không không chỉ hoàn toàn là Không, mà còn có sự xuất hiện, còn có tướng sắc xuất hiện, nhưng sự xuất hiện của sắc vẫn là tánh Không. “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”.

Đây chính là ý nghĩa của như mộng, như huyễn, như hóa… Mộng, huyễn, hóa… là có sự xuất hiện, nhưng sự xuất hiện ấy là tánh Không, vô tự tánh, bất khả đắc, vô sở hữu nên nói là như mộng, như huyễn, như hóa. Sắc có xuất hiện, mắt có xuất hiện, nhãn xúc có xuất hiện, nhưng như mộng, như huyễn, như hóa, như bóng trong gương.

 

Tiếp theo đoạn kinh ghi lời của Đức Phật ở trên, ngài Tu Bồ Đề! nói:

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Như con quán sát nghĩa Phật nói thì sắc không buộc, không thoát; thọ tưởng hành thức không buộc không thoát.

Ngài Phú Lâu Na hỏi ngài Tu Bồ Đề: Thế nào là sắc không buộc không thoát; thọ tưởng hành thức là không buộc không thoát?

Ngài Tu Bồ Đề nói: Sắc như mộng không buộc không thoát; thọ tưởng hành thức như mộng không buộc không thoát. Sắc như bóng, như vang, như huyễn, như sóng nắng, như biến hóa không buộc không thoát…

Thế gian, xuất thế gianhữu lậu cùng vô lậu, sắc thọ tưởng hành thức cũng không buộc không thoát. Vì sao thế? Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát.

Tất cả pháp cũng không buộc không thoát. Vì sao thế? Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát.

Này ngài Phú Lâu Na! Bố thí ba la mật đến Bát nhã ba la mật không buộc không thoát. Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát…

Đại Bồ tát an trụ trong sáu ba la mật không buộc không thoát, cho đến an trụ nhất thiết chủng trí không buộc không thoát, thành tựu chúng sanh không buộc không thoát, tịnh Phật quốc độ không buộc không thoát, cúng dường chư Phật không buộc không thoát, nghe pháp không buộc không thoát, trọn chẳng lìa chư Phật không buộc không thoát… chuyển pháp luân không buộc không thoát, an lập chúng sanh nơi Tam thừa không buộc không thoát.

Như vậy, ngài Phú Lâu Na! Đại Bồ tát thực hành sáu ba la mật không buộc không thoát, vì biết tất cả pháp đều không buộc không thoát, vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát.

Đây gọi là đại Bồ tát không buộc không thoát đại trang nghiêm” (phẩm Trang Nghiêm, thứ 17).

 

Tất cả các pháp sắc thọ tưởng hành thức, sắc thanh hương vị xúc pháp, mắt tai mũi lưỡi thân ý cho đến các thánh pháp như sáu ba la mật, Nhất thiết chủng trí cho đến chúng sanh… đều như mộng, như huyễn, như hóa. Và vì như mộng như huyễn như hóa nên đều không buộc không thoát, không trói buộc không giải thoát.

Tất cả các pháp đều như mộng như huyễn, không buộc không thoát. Như mộng như huyễn, như hóa… nghĩa là có xuất hiện, nhưng không buộc không thoát vì vẫn là tánh Không. “Vô sở hữu, lìa, tịch diệt, vô sanh” không có nghĩa là không có gì cả, hoàn toàn vắng lặng, bất động, không có pháp nào sanh ra. Tất cả có xuất hiện, có chuyển động, có sanh ra nhưng xuất hiện, chuyển động, sanh ra trên nền tảng tánh Không, vô tướng, bất động, vô sanh nên như mộng như huyễn, không buộc không thoát. Thế nên, xuất hiện mà không xuất hiện, không xuất hiệnxuất hiện; sanh mà vô sanh, vô sanh mà sanh. Như câu kinh trong Bát Nhã Tâm Kinh, có sắc xuất hiện nhưng đồng thời là Không, là Không nhưng đồng thời có sắc xuất hiện: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”.

Đó là nghĩa của như mộng, như huyễn, như hóa…, không buộc không thoát.

Bồ tát quán thấy như vậy thì thấu rõ tánh Khôngđược giải thoát, và ở trong tánh Không này mà giúp đỡ, giải thoát cho chúng sanh như mộng như huyễn. Khi giúp đỡ, giải thoát cho chúng sanh như mộng như huyễn, Bồ tát cũng giải thoát khỏi cả công việc làm lợi lạc cho chúng sanh này.

 

Tu Bồ Đề! Ví như nhà huyễn thuật giỏi, ở giữa ngã tư đường hóa làm ra đại chúng, rồi cung cấp đồ ăn uống, cho đến các thứ cần dùng. Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Đối với nhà huyễn thuật ấy thật có đại chúng để cung cấp cho chăng?

Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn, không có thật.

- Này Tu Bồ Đề! Cũng vậy, đại Bồ tát hóa làm Chuyển luân thánh vương cung cấp nhu cầu đầy đủ cho tất cả chúng sanh, tuy có bố thíthật không có chỗ bố thí. Vì sao thế? Vì tướng các pháp như huyễn vậy” (phẩm Trang Nghiêm, thứ 17).

 

Không những Bồ tát như nhà huyễn thuật hóa làm ra chúng sanh để bố thí cho họ, mà chính Bồ tát cũng là người do biến hóa, “đại Bồ tát hóa làm Chuyển luân thánh vương cung cấp cho chúng sanh”. Người bố thí, người nhận bố thí, và vật được bố thí đều như huyễn thuật, như biến hóa. Tất cả đều được làm trong tánh Không nên tất cả đều được giải thoát.

 

Đức Phật bảo A Nan: Tất cả pháp chẳng đối lập với mắt: các pháp chẳng thấy nhau, các pháp chẳng biết nhau.

Như cõi nước Phật A Súc, Thanh Văn, Bồ tát không đối hiện trước mắt, các pháp cũng không đối hiện trước mắt, các pháp không thấy nhau, các pháp không biết nhau. Vì các pháp không có sự thấy, không có sự biết, không có làm, không có động, không thể nắm bắt, không thể nghĩ bàn. Như người huyễn thì không chân thật nên không lãnh thọ, không biết phân biệt. Bồ tát hành như vậy là hành Bát nhã ba la mật, chẳng nắm lấy các pháp. Bồ tát học như vậy là học Bát nhã ba la mật.

Người muốn được các Ba la mật phải học Bát nhã ba la mật. Học như vậy gọi là đệ nhất học, là tối thượng học, là vi diệu học. Học như vậy là an lạc lợi ích tất cả thế gian, làm nơi cứu hộ cho người không ai cứu hộ” (phẩm Chúc Lụy, thứ 66).

 

Các pháp chẳng thấy nhau, chẳng biết nhau, chẳng đối lập nhau, vì sao thế? “Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh, nên không buộc không thoát”. Trong khi đó người mê lầm thì thấy có đối vật, đối tượng trước mắt. Một khi có đối tượng bèn có chủ thể, từ đó mà có bốn tướng ta, người, chúng sanh, thọ mạng che lấp tánh Không.

Các pháp không có sự thấy, không có sự biết, không có làm, không có động, không thể nắm bắt, không thể nghĩ bàn, nhưng vì vô minh phân biệt nên con người thấy ngược lại với thật tướng tánh Không: có sự thấy, có sự biết do phân biệt, có làm, có động, có nắm bắt, có nghĩ bàn. Thấy có các pháp ngược lại với thật tướng tánh Không nên có sanh tử khổ đau, do chính cái thấy sai lầm của mình.

Người thấy tánh Không không thấy có đối vật, đối tượng. Và nếu có sự xuất hiện thì sự xuất hiện ấy như mộng, như huyễn, như hóa… không có vật đối hiện thật trước mắt. Cho nên người thực hành trí huệ tánh Không thì “như người huyễn thì không chân thật nên không lãnh thọ, không biết phân biệt”. Nếu không thấy tất cả mọi sự xuất hiệnvô tự tánh, bất khả đắc, vô sở hữu, như huyễn như mộng… mà thấy tất cả mọi sự xuất hiện là có thật, khi ấy tất cả mọi sự xuất hiện biến thành tất cả sanh tử.

Bồ tát hành như người huyễn là hành trí huệ Bát nhã. Và học như vậy, hành như vậy là làm an lạc lợi ích cho tất cả thế gian, làm nơi cứu hộ cho người không ai cứu hộ, vì hành như vậy là hành trong tánh Không, không có ta, người, chúng sanh, thọ mạng. Ở đây một lần nữa, chúng ta thấy trí huệ tánh Không luôn luôn đi cùng với từ bi.

Người huyễn thì không có bốn tướng ta, người, chúng sanh, thọ mạng và khi không có bốn tướng ấy thì đó là tướng Như, là pháp tánh, là thật tế.

 

“- Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát được Nhất thiết chủng trí như tướng Như.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là như tướng Như?

- Này Tu Bồ Đề! Như thật tế.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là như thật tế?

- Này Tu Bồ Đề! Như pháp tánh.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là như pháp tánh?

- Này Tu Bồ Đề! Như ngã tánh, chúng sanh tánh, thọ mạng tánh.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là ngã tánh, chúng sanh tánh, thọ mạng tánh?

- Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Ngã, chúng sanh, thọ mạng có thể có được chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thể có được.

- Này Tu Bồ Đề! Nếu ngã, chúng sanh, thọ mạng chẳng thể có được thì sao lại nói có ngã tánh, chúng sanh tánh, thọ mạng tánh? Nếu trong Bát nhã ba la mật chẳng nói có tất cả pháp thì sẽ được Nhất thiết chủng trí” (phẩm Tam Huệ, thứ 70). 

 

Thực hành Trí huệ tánh Không là không thấy có pháp, không chỗ làm, như người biến hóa độ chúng sanh biến hóa.

 

- “Này Tu Bồ Đề! Lúc hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ tát chẳng thấy có sắc, cho đến chẳng thấy có Vô thượng Bồ đề.

Này Tu Bồ Đề! Vì không chỗ làm mà đại Bồ tát hành Bát nhã ba la mật. Vì sao thế? Vì tất cả pháp không chỗ làm, không chỗ tạo tác, Bát nhã ba la mật cũng không chỗ làm, không chỗ tạo tác. Vô thượng Bồ đề cũng không chỗ làm, không chỗ tạo tác, đại Bồ tát cũng không chỗ làm, không chỗ tạo tác.

Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát phải hành Bát nhã ba la mật không chỗ làm, không chỗ tạo tác…

- Này Tu Bồ Đề! Phật cũng như vậy, biết các pháp như biến hóa. Như người biến hóa độ chúng sanh biến hóakhông thậtchúng sanh để độ.

Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát hành Bát nhã ba la mật, hành như người biến hóa hành” (phẩm Tam Huệ, thứ 70).

 

Người huyễn làm việc huyễn. Năng lực của người huyễn thật phi thường vì không còn những chướng ngại chấp ngãchấp pháp, phiền não chướngsở tri chướng. Càng phá trừ được chấp ngãchấp pháp, phiền não chướngsở tri chướng thì năng lực của người huyễn càng được khai mở. Thế nên, Kinh cho chúng ta thấy rằng bậc có năng lực tối thượng, Đức Phật, đồng với người huyễn, người hóa tối thượng. Bậc người huyễn, người hóa tối thượng, bậc có năng lực tối thượng cũng là phước điền tối thượng.

Ở đoạn tiếp theo của phẩm Tam Huệ, kinh nói:

 

“- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều như hóa thì Phật cùng người hóa có gì khác?

- Này Tu Bồ Đề! Phật và người hóa không khác. Vì sao thế? Vì Phật hay làm sự việc, người hóa cũng hay làm sự việc.

- Tu Bồ Đề! Tất cả chúng sanh thế gian đều cho là Phật có diệt độ thật. Nhưng này Tu Bồ Đề! Người hóa thật không sanh không diệt.

Như vậy, Bồ tát hành Bát nhã ba la mật phải tin và biết rằng các pháp như huyễn hóa.

- Bạch Thế Tôn! Nếu Phật và người hóa của Phật không sai khác nhau thì làm sao khiến người bố thí, cúng dường thanh tịnh, cho đến được phước đức không cùng tận?

Phật bảo Tu Bồ Đề: Phật dùng thật tướng của tất cả các pháp mà làm phước điền cho trời, người và tất cả chúng sanh. Hóa Phật cũng dùng thật tướng của các pháp mà làm phước điền cho trời, người và tất cả chúng sanh… Vì thế nên biết rằng Phật cùng hóa Phật không sai khác, vì thật tướng của các pháp không sai khác vậy.

Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát phải hành Bát nhã ba la mật, vào trong thật tướng của các pháp như vậy. Thật tướng của các pháp chẳng hư hoại, đó gọi là tướng Bát nhã ba la mật cho đến tướng Giác ngộ Vô thượng không hư hoại” (phẩm Tam Huệ, thứ 70).

 

Như mộng, như huyễn, như hóathật tướng của tất cả pháp, đó là tánh Không. Tánh KhôngTrí huệ, đồng thờiphước điền của tất cả chúng sanh trời người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13057)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27021)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32856)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31656)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32581)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13022)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12142)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17497)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18724)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12572)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11776)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13127)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12207)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12491)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11633)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11987)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10605)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10930)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28323)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11174)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11366)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13598)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11040)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11432)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10900)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11185)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26349)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12387)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14885)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11062)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20330)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12357)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11474)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10764)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23910)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11851)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12302)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12832)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11046)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38726)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10535)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12193)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17704)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25044)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10552)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10754)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12048)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11308)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11591)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14739)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21439)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9900)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11263)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27363)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11179)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11840)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11008)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14309)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11476)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12641)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant