Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Người Huyễn Làm Việc Huyễn

26 Tháng Mười Một 202120:07(Xem: 2335)
Người Huyễn Làm Việc Huyễn

NGƯỜI HUYỄN LÀM VIỆC HUYỄN

Nguyễn Thế Đăng

 
Công Đức Chiêm Bái Phật Tích


Người thực hành Trí huệ toàn thiện (Bát nhã ba la mật) quán thấy tất cả pháp là Không, như mộng, như huyễn, như hóa… cho đến chúng sanh cũng rốt ráo bất khả đắc:

 

Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác. Đại Bồ tátchúng sanh ấy mà đại trang nghiêm.

Vì sao thế? Vì người làm (tác giả) bất khả đắc vậy.

Này Tu Bồ Đề! Trí nhất thiết chủng chẳng phải là pháp tạo tác, sanh khởi, chúng sanh ấy cũng chẳng phải là pháp tạo tác, sanh khởi. Vì sao thế? Vì sắc chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác, thọ tưởng hành thức chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Mắt chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, cho đến ý chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác. Sắc cho đến pháp, nhãn thức cho đến ý thức, nhãn xúc cho đến ý xúc, làm nhân duyên sanh thọ chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Ngã, nhân cho đến người biết, người thấy, chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác.

Vì sao thế? Vì các pháp rốt ráo bất khả đắc vậy.

Tu Bồ Đề! Mộng chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Vì sao thế? Vì rốt ráo bất khả đắc. Huyễn, vang, bóng, sóng nắng, biến hóa chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy…

Tu Bồ Đề! Pháp Như, pháp tướng, pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, thật tế chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy. Bồ tát chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy. Nhất thiết tríNhất thiết chủng trí chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác, vì rốt ráo bất khả đắc vậy.

Tu Bồ Đề! Do nhân duyên ấy nên Nhất thiết trí chẳng phải pháp tạo tác, sanh khởi, chúng sanh ấy cũng chẳng phải pháp tạo tác, sanh khởi. Đại Bồ tátchúng sanh ấy mà đại trang nghiêm”.

(Phẩm Trang Nghiêm, thứ 17).

 

Công việc của Bồ tát, theo tất cả các kinh điển Đại thừa là “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”. Ở đoạn kinh này “đại trang nghiêm” có nghĩa như vậy. Bồ tát thực hành Trí huệ soi thấy tánh Không của tất cả các pháp, an trụ trong tánh Không ấy mà giảng nói cho chúng sanh về tánh Không để giải thoát cho họ.

Tánh Khôngthật tướng của tất cả các pháp thế gianxuất thế gian: “Trí nhất thiết chủng chẳng phải là pháp làm ra, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp làm ra”. “Pháp tạo tác, pháp làm ra” là pháp hữu vi, pháp hợp tạo. Tánh Không chẳng phải là pháp hữu vi, pháp hợp tạo, chẳng phải là do duyên sanh. Thiền định thiền quán “cái chẳng phải là pháp làm ra” là thiền định thiền quán tánh Không.

Tất cả các pháp thế gianxuất thế gian đều chẳng phải là pháp tạo tác, sanh khởi, nên tất cả các pháp đều là tánh Không.

Chẳng phải pháp tạo tác, chẳng phải pháp sanh khởi, đây nói về phương diện vô sanh của tánh Không.

Sắc chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác. Mộng, huyễn, vang, bóng, sóng nắng, biến hóa chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác”. Cho đến các pháp xuất thế gian, “pháp Như, pháp tướng, pháp tánh, thật tế, nhất thiết trí, nhất thiết trí chủng trí chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo tác”. Ở trước chỉ nói chẳng phải tạo tác, sanh khởi, ở đây lại nói thêm “chẳng phải không tạo tác”. Chúng ta cần phải hiểu như thế nào?

Chẳng phải tạo tác, sanh khởitánh Không, một tánh Không không sanh, không có tướng, không có sự xuất hiện. Nhưng tánh Không không chỉ có phương diện không sanh, mà còn có phương diện “chẳng phải không tạo tác”, nghĩa là phương diện tạo tác, làm ra, có sanh khởi, có tướng, có xuất hiện. Đó là điều Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Tánh Không không chỉ hoàn toàn là Không, mà còn có sự xuất hiện, còn có tướng sắc xuất hiện, nhưng sự xuất hiện của sắc vẫn là tánh Không. “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”.

Đây chính là ý nghĩa của như mộng, như huyễn, như hóa… Mộng, huyễn, hóa… là có sự xuất hiện, nhưng sự xuất hiện ấy là tánh Không, vô tự tánh, bất khả đắc, vô sở hữu nên nói là như mộng, như huyễn, như hóa. Sắc có xuất hiện, mắt có xuất hiện, nhãn xúc có xuất hiện, nhưng như mộng, như huyễn, như hóa, như bóng trong gương.

 

Tiếp theo đoạn kinh ghi lời của Đức Phật ở trên, ngài Tu Bồ Đề! nói:

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Như con quán sát nghĩa Phật nói thì sắc không buộc, không thoát; thọ tưởng hành thức không buộc không thoát.

Ngài Phú Lâu Na hỏi ngài Tu Bồ Đề: Thế nào là sắc không buộc không thoát; thọ tưởng hành thức là không buộc không thoát?

Ngài Tu Bồ Đề nói: Sắc như mộng không buộc không thoát; thọ tưởng hành thức như mộng không buộc không thoát. Sắc như bóng, như vang, như huyễn, như sóng nắng, như biến hóa không buộc không thoát…

Thế gian, xuất thế gianhữu lậu cùng vô lậu, sắc thọ tưởng hành thức cũng không buộc không thoát. Vì sao thế? Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát.

Tất cả pháp cũng không buộc không thoát. Vì sao thế? Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát.

Này ngài Phú Lâu Na! Bố thí ba la mật đến Bát nhã ba la mật không buộc không thoát. Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát…

Đại Bồ tát an trụ trong sáu ba la mật không buộc không thoát, cho đến an trụ nhất thiết chủng trí không buộc không thoát, thành tựu chúng sanh không buộc không thoát, tịnh Phật quốc độ không buộc không thoát, cúng dường chư Phật không buộc không thoát, nghe pháp không buộc không thoát, trọn chẳng lìa chư Phật không buộc không thoát… chuyển pháp luân không buộc không thoát, an lập chúng sanh nơi Tam thừa không buộc không thoát.

Như vậy, ngài Phú Lâu Na! Đại Bồ tát thực hành sáu ba la mật không buộc không thoát, vì biết tất cả pháp đều không buộc không thoát, vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh nên không buộc không thoát.

Đây gọi là đại Bồ tát không buộc không thoát đại trang nghiêm” (phẩm Trang Nghiêm, thứ 17).

 

Tất cả các pháp sắc thọ tưởng hành thức, sắc thanh hương vị xúc pháp, mắt tai mũi lưỡi thân ý cho đến các thánh pháp như sáu ba la mật, Nhất thiết chủng trí cho đến chúng sanh… đều như mộng, như huyễn, như hóa. Và vì như mộng như huyễn như hóa nên đều không buộc không thoát, không trói buộc không giải thoát.

Tất cả các pháp đều như mộng như huyễn, không buộc không thoát. Như mộng như huyễn, như hóa… nghĩa là có xuất hiện, nhưng không buộc không thoát vì vẫn là tánh Không. “Vô sở hữu, lìa, tịch diệt, vô sanh” không có nghĩa là không có gì cả, hoàn toàn vắng lặng, bất động, không có pháp nào sanh ra. Tất cả có xuất hiện, có chuyển động, có sanh ra nhưng xuất hiện, chuyển động, sanh ra trên nền tảng tánh Không, vô tướng, bất động, vô sanh nên như mộng như huyễn, không buộc không thoát. Thế nên, xuất hiện mà không xuất hiện, không xuất hiệnxuất hiện; sanh mà vô sanh, vô sanh mà sanh. Như câu kinh trong Bát Nhã Tâm Kinh, có sắc xuất hiện nhưng đồng thời là Không, là Không nhưng đồng thời có sắc xuất hiện: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc”.

Đó là nghĩa của như mộng, như huyễn, như hóa…, không buộc không thoát.

Bồ tát quán thấy như vậy thì thấu rõ tánh Khôngđược giải thoát, và ở trong tánh Không này mà giúp đỡ, giải thoát cho chúng sanh như mộng như huyễn. Khi giúp đỡ, giải thoát cho chúng sanh như mộng như huyễn, Bồ tát cũng giải thoát khỏi cả công việc làm lợi lạc cho chúng sanh này.

 

Tu Bồ Đề! Ví như nhà huyễn thuật giỏi, ở giữa ngã tư đường hóa làm ra đại chúng, rồi cung cấp đồ ăn uống, cho đến các thứ cần dùng. Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Đối với nhà huyễn thuật ấy thật có đại chúng để cung cấp cho chăng?

Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn, không có thật.

- Này Tu Bồ Đề! Cũng vậy, đại Bồ tát hóa làm Chuyển luân thánh vương cung cấp nhu cầu đầy đủ cho tất cả chúng sanh, tuy có bố thíthật không có chỗ bố thí. Vì sao thế? Vì tướng các pháp như huyễn vậy” (phẩm Trang Nghiêm, thứ 17).

 

Không những Bồ tát như nhà huyễn thuật hóa làm ra chúng sanh để bố thí cho họ, mà chính Bồ tát cũng là người do biến hóa, “đại Bồ tát hóa làm Chuyển luân thánh vương cung cấp cho chúng sanh”. Người bố thí, người nhận bố thí, và vật được bố thí đều như huyễn thuật, như biến hóa. Tất cả đều được làm trong tánh Không nên tất cả đều được giải thoát.

 

Đức Phật bảo A Nan: Tất cả pháp chẳng đối lập với mắt: các pháp chẳng thấy nhau, các pháp chẳng biết nhau.

Như cõi nước Phật A Súc, Thanh Văn, Bồ tát không đối hiện trước mắt, các pháp cũng không đối hiện trước mắt, các pháp không thấy nhau, các pháp không biết nhau. Vì các pháp không có sự thấy, không có sự biết, không có làm, không có động, không thể nắm bắt, không thể nghĩ bàn. Như người huyễn thì không chân thật nên không lãnh thọ, không biết phân biệt. Bồ tát hành như vậy là hành Bát nhã ba la mật, chẳng nắm lấy các pháp. Bồ tát học như vậy là học Bát nhã ba la mật.

Người muốn được các Ba la mật phải học Bát nhã ba la mật. Học như vậy gọi là đệ nhất học, là tối thượng học, là vi diệu học. Học như vậy là an lạc lợi ích tất cả thế gian, làm nơi cứu hộ cho người không ai cứu hộ” (phẩm Chúc Lụy, thứ 66).

 

Các pháp chẳng thấy nhau, chẳng biết nhau, chẳng đối lập nhau, vì sao thế? “Vì là vô sở hữu, vì lìa, vì tịch diệt, vì vô sanh, nên không buộc không thoát”. Trong khi đó người mê lầm thì thấy có đối vật, đối tượng trước mắt. Một khi có đối tượng bèn có chủ thể, từ đó mà có bốn tướng ta, người, chúng sanh, thọ mạng che lấp tánh Không.

Các pháp không có sự thấy, không có sự biết, không có làm, không có động, không thể nắm bắt, không thể nghĩ bàn, nhưng vì vô minh phân biệt nên con người thấy ngược lại với thật tướng tánh Không: có sự thấy, có sự biết do phân biệt, có làm, có động, có nắm bắt, có nghĩ bàn. Thấy có các pháp ngược lại với thật tướng tánh Không nên có sanh tử khổ đau, do chính cái thấy sai lầm của mình.

Người thấy tánh Không không thấy có đối vật, đối tượng. Và nếu có sự xuất hiện thì sự xuất hiện ấy như mộng, như huyễn, như hóa… không có vật đối hiện thật trước mắt. Cho nên người thực hành trí huệ tánh Không thì “như người huyễn thì không chân thật nên không lãnh thọ, không biết phân biệt”. Nếu không thấy tất cả mọi sự xuất hiệnvô tự tánh, bất khả đắc, vô sở hữu, như huyễn như mộng… mà thấy tất cả mọi sự xuất hiện là có thật, khi ấy tất cả mọi sự xuất hiện biến thành tất cả sanh tử.

Bồ tát hành như người huyễn là hành trí huệ Bát nhã. Và học như vậy, hành như vậy là làm an lạc lợi ích cho tất cả thế gian, làm nơi cứu hộ cho người không ai cứu hộ, vì hành như vậy là hành trong tánh Không, không có ta, người, chúng sanh, thọ mạng. Ở đây một lần nữa, chúng ta thấy trí huệ tánh Không luôn luôn đi cùng với từ bi.

Người huyễn thì không có bốn tướng ta, người, chúng sanh, thọ mạng và khi không có bốn tướng ấy thì đó là tướng Như, là pháp tánh, là thật tế.

 

“- Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát được Nhất thiết chủng trí như tướng Như.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là như tướng Như?

- Này Tu Bồ Đề! Như thật tế.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là như thật tế?

- Này Tu Bồ Đề! Như pháp tánh.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là như pháp tánh?

- Này Tu Bồ Đề! Như ngã tánh, chúng sanh tánh, thọ mạng tánh.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là ngã tánh, chúng sanh tánh, thọ mạng tánh?

- Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Ngã, chúng sanh, thọ mạng có thể có được chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thể có được.

- Này Tu Bồ Đề! Nếu ngã, chúng sanh, thọ mạng chẳng thể có được thì sao lại nói có ngã tánh, chúng sanh tánh, thọ mạng tánh? Nếu trong Bát nhã ba la mật chẳng nói có tất cả pháp thì sẽ được Nhất thiết chủng trí” (phẩm Tam Huệ, thứ 70). 

 

Thực hành Trí huệ tánh Không là không thấy có pháp, không chỗ làm, như người biến hóa độ chúng sanh biến hóa.

 

- “Này Tu Bồ Đề! Lúc hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ tát chẳng thấy có sắc, cho đến chẳng thấy có Vô thượng Bồ đề.

Này Tu Bồ Đề! Vì không chỗ làm mà đại Bồ tát hành Bát nhã ba la mật. Vì sao thế? Vì tất cả pháp không chỗ làm, không chỗ tạo tác, Bát nhã ba la mật cũng không chỗ làm, không chỗ tạo tác. Vô thượng Bồ đề cũng không chỗ làm, không chỗ tạo tác, đại Bồ tát cũng không chỗ làm, không chỗ tạo tác.

Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát phải hành Bát nhã ba la mật không chỗ làm, không chỗ tạo tác…

- Này Tu Bồ Đề! Phật cũng như vậy, biết các pháp như biến hóa. Như người biến hóa độ chúng sanh biến hóakhông thậtchúng sanh để độ.

Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát hành Bát nhã ba la mật, hành như người biến hóa hành” (phẩm Tam Huệ, thứ 70).

 

Người huyễn làm việc huyễn. Năng lực của người huyễn thật phi thường vì không còn những chướng ngại chấp ngãchấp pháp, phiền não chướngsở tri chướng. Càng phá trừ được chấp ngãchấp pháp, phiền não chướngsở tri chướng thì năng lực của người huyễn càng được khai mở. Thế nên, Kinh cho chúng ta thấy rằng bậc có năng lực tối thượng, Đức Phật, đồng với người huyễn, người hóa tối thượng. Bậc người huyễn, người hóa tối thượng, bậc có năng lực tối thượng cũng là phước điền tối thượng.

Ở đoạn tiếp theo của phẩm Tam Huệ, kinh nói:

 

“- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều như hóa thì Phật cùng người hóa có gì khác?

- Này Tu Bồ Đề! Phật và người hóa không khác. Vì sao thế? Vì Phật hay làm sự việc, người hóa cũng hay làm sự việc.

- Tu Bồ Đề! Tất cả chúng sanh thế gian đều cho là Phật có diệt độ thật. Nhưng này Tu Bồ Đề! Người hóa thật không sanh không diệt.

Như vậy, Bồ tát hành Bát nhã ba la mật phải tin và biết rằng các pháp như huyễn hóa.

- Bạch Thế Tôn! Nếu Phật và người hóa của Phật không sai khác nhau thì làm sao khiến người bố thí, cúng dường thanh tịnh, cho đến được phước đức không cùng tận?

Phật bảo Tu Bồ Đề: Phật dùng thật tướng của tất cả các pháp mà làm phước điền cho trời, người và tất cả chúng sanh. Hóa Phật cũng dùng thật tướng của các pháp mà làm phước điền cho trời, người và tất cả chúng sanh… Vì thế nên biết rằng Phật cùng hóa Phật không sai khác, vì thật tướng của các pháp không sai khác vậy.

Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát phải hành Bát nhã ba la mật, vào trong thật tướng của các pháp như vậy. Thật tướng của các pháp chẳng hư hoại, đó gọi là tướng Bát nhã ba la mật cho đến tướng Giác ngộ Vô thượng không hư hoại” (phẩm Tam Huệ, thứ 70).

 

Như mộng, như huyễn, như hóathật tướng của tất cả pháp, đó là tánh Không. Tánh KhôngTrí huệ, đồng thờiphước điền của tất cả chúng sanh trời người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4531)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7262)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2939)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12161)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3972)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3779)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4169)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3656)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5011)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6621)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3969)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4083)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5307)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3769)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4499)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3531)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3907)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4371)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5370)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3826)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3913)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3846)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4791)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4493)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4224)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3805)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4608)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4164)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6060)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4570)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4926)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4134)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4790)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5636)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3594)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4006)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4569)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5248)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3121)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4724)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4511)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4257)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4712)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4468)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4579)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7187)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5175)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4976)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4565)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5584)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5241)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4130)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5981)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4693)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4849)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5455)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5591)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5782)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4971)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4358)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant