Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Từ Một Dịch Ngữ Của Ngài Đàm-vô-sấm Nghĩ Đến Vấn Đề Hòa Nhập Mà Không Hòa Tan.

04 Tháng Mười Hai 202120:13(Xem: 3718)
Từ Một Dịch Ngữ Của Ngài Đàm-vô-sấm Nghĩ Đến Vấn Đề Hòa Nhập Mà Không Hòa Tan.

Từ Một Dịch Ngữ Của Ngài Đàm-vô-sấm
Nghĩ Đến Vấn Đề Hòa Nhập Mà Không Hòa Tan.


Chúc Phú

Có Vinh Thì Có Nhục

 

Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1]. Do gặp phải vương nạn Thư Cừ Mông Tốn (沮渠蒙遜), nên thọ mạng của ngài chưa tới năm mươi[2]. Tuy nhiên, theo ghi nhận qua các bộ Kinh lụcthực tế khảo sát của chúng tôi, với số lượng dịch phẩm phung phú[3], cũng như chất lượng bản dịch của ngài, đã cho thấy khả năng vận dụng nhuần nhuyễn những yếu tố Nho học và cả Đạo học trong quá trình chuyển tải nghĩa lý Phật kinh.

Trong nhiều dịch ngữ cô đọng và đặc thù của ngài Đàm-vô-sấm, chúng tôi chọn một đoạn trong kinh Đại bát Niết-bàn (大般涅槃經)[4] do ngài phiên dịch để làm rõ ý nghĩa vừa nêu. Đoạn kinh này không những có mối thừa tiếp với Đạo học của Lão Tử mà còn có những liên hệ gần như trùng khớp với phong cách ứng xử của một bậc bậc cao tăng đương đại, thậm chí còn có thể vận dụng linh động vào hiện tình sinh hoạt của Phật giáo ngày nay nói chung.

Kinh ghi:

Này người Thiện nam! Như Lai từng nói: Lúc chánh pháp diệt, chánh giới hủy hoại, kẻ phá giới tăng thêm, việc phi pháp càng nhiều, tất cả Thánh nhân ẩn cư không hiện, [chúng tăng] nhận nuôi tôi tớ, chứa vật bất tịnh. Bấy giờ, trong bốn hạng người, sẽ có một người xuất hiện ở đời, cạo bỏ râu tóc, xuất gia hành đạo, thấy các Tỳ-kheo nhận nuôi nô tỳ, tôi tớ, chứa vật bất tịnh mà lại không biết tịnh hay bất tịnh, lại cũng không biết đúng hay trái luật. Vì muốn điều phục các Tỳ-kheo đó, thế nên vị ấy đã cùng hòa nhập nhưng không để nhiễm ô. Vị ấy khéo léo phân biệt biết rõ hành xứ của mình và hành xứ của Phật, tuy thấy những người đó phạm Ba-la-di[5] nhưng vẫn im lặng mà không cử tội. Vì sao như vậy? [Vì vị ấy nghĩ rằng]: “Ta xuất hiện nơi đời vì muốn kiến lậphộ trì Chánh pháp”, thế nên vị ấy im lặng mà không cử tội. Này người Thiện nam! Những người như thế tuy có sai phạm nhưng vì hộ trì chánh pháp nên không thể gọi họ là người phá giới. (Trung tâm dịch thuật Trí Tịnh, dịch).

Điều đặc biệt kỳ thú ở đoạn kinh nêu trên chính là dịch ngữ: Cùng hòa nhập nhưng không để nhiễm ô. Nguyên tác kinh văn là: Dữ cộng hòa quang bất đồng kỳ trần (與共和光不同其塵).

Theo khảo sát, dịch ngữ này vốn lưu xuất từ một mệnh đề nằm trong tác phẩm Đạo đức kinh (道德經), của Lão Tử (老子), Chương thứ tư: Vô nguyên (無源第四) với nguyên tác là: Hòa kỳ quang, đồng kỳ trần (和其光,同其塵). Mệnh đề này được dịch giả Nguyễn Duy Cần dịch là: Điều hòa ánh sáng, đồng cùng bụi bặm và cũng được Lý Minh Tuấn dịch là: Hoà với ánh sáng, đồng với bụi bặm.

Với ngài Đàm-vô-sấm, từ một mệnh đề mang tính phổ biến trong Đạo đức kinh nhưng việc lược bỏ đi đại từ (其), thêm trạng từ (與共) và một phủ định từ (不), trong khi chuyển dịch kinh Đại bát Niết-bàn, đã thể hiện trí tuệ kiệt xuất, văn thể tài hoa nhằm đặc tả hạnh nhập thế của hàng Bồ-tát. Ý kinh này có những liên hệ tương đồng với lời Phật dạy trong kinh Dhammika, thuộc kinh Tập (Sn.14): Bhikkhu yathā pokkhare vāribindu (Tỳ-kheo như giọt nươc./ Không dính trên lá sen. HT. Thích Minh Châu, dịch).

Thái độ sống tích cực Cùng hòa nhập nhưng không để nhiễm ô (與共和光不同其塵) của kinh Đại bát Niết-bàn còn được một bậc cao tăng của Phật Giáo Trung Quốc đương đại, là ngài Thánh Nghiêm (1930-2009) mặc nhiên vận dụng. Theo Thánh Nghiêm tự truyện[6], trong giai đoạn đầu của quãng đời tu tập, ngài đã sống trong một ngôi tự viện mang tên Đại Thánh Tự, do chiến tranh, loạn lạc, đói kém… nên phải sống chung cùng với nhiều thành phần bất hảo và phải đối diện với bao điều phi pháp diễn ra hằng ngày…Tự truyện ghi: Có nhiều thanh niên trẻ, mang hình tướng tu sĩ, họ học thức cao, có tài, thông minh (dung mạo dễ nhìn) cùng đổ xô tới Thượng Hải và ngụ tại Đại Thánh Tự. Họ tán tụng nhuần nhuyễn, giỏi giang. Nhưng họ không phải là tu sĩ chân chánh[7]… Cũng theo Tự truyện, từ đó đã xảy ra những điều bất hạnh trong ngôi Đại Thánh Tự như nạn nghiện hút, chuyện nam nữ, tranh giành đám xá…Quả là khổ nạn đối với một người sơ phát tâm khi phải sống trong môi trường như vậy, nhưng tâm tư của ngài Thánh Nghiêm không hề dao động và đã thể hiện bản lĩnh của riêng mình: Tôi hiểu rõ điều này, mặc dù thời đó tôi không diễn đạt lý tưởng riêng, song tôi hoàn toàn không muốn sống giống họ[8].

Có thể nói, từ lời Phật dạy được tóm lược trong kinh Đại bát Niết-bàn: Hòa quang bất đồng kỳ trần (和光不同其塵) qua bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm và lời dạy của Lão Tử trong Đạo đức kinh: Hòa kỳ quang, đồng kỳ trần (和其光,同其塵) tuy chỉ khác biệt một vài chữ nhưng nghĩa lý cách xa nhau muôn dặm.

 Trong thực tế ngày nay, khi đạo đức của nhân loại nói chung đang có những biểu hiện suy giảm, đã tác động đến nhiều lãnh vực của xã hội mà trong đó có cả Phật giáo, thì dịch ngữ của ngài Đàm-vô-sấm từ bản kinh Đại-bát Niết-bàn, có thể được vận dụng như một thái độ sống nhu nhuyến, hiệu năngtích cực trong bất kỳ mối quan hệ nào.

 

 



[1] Ngài Ấn Thuận (印順: 1906-2005) trong Hoa Vũ Tập 華雨集 (T.28.0028.4. 0213a09) đã ghi nhận: Có một sự thật trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm chính là môt bậc đại sư dịch kinh trác việt (一事實中國佛教史上曇無讖 (Dharmarakṣa) 是一位卓越的大譯師).

[2] Thư Cừ Mông Tốn (沮渠蒙遜:368-433) bề ngoài ủng hộ Phật giáo, nhưng thực chất ông ta lợi dụng Phật giáo nhằm thực hiện những mưu đồ chính trị của mình. Điều đó chứng tỏ ở chỗ, mặc dù ủng hộ và hậu đãi ngài Đàm Vô Sấm (曇無讖: 385-433), nhưng khi biết tin ngài Đàm Vô Sấm trở về Tây Vức vào năm thứ mười niên hiệu Nguyên Gia (433), vì sợ ngài làm lộ bí mật quân cơ, nên Thư Cừ Mông Tốn đã sai thích khách giết hại, khi ấy ngài Đàm Vô Sấm chỉ mới 49 tuổi. Trong sự kiện này, thực chất ngài Đàm Vô Sấm chỉ muốn trở về Tây Vức để tìm phần còn lại của kinh Đại-bát Niết-bàn. Xem tại, Cao Tăng truyện 高僧傳 (T.50.259.2. 0335c16).

[3] Theo ghi nhận của ngài Trí Thăng (智昇) trong Khai Nguyên Thích Giáo Lục 開元釋教錄 (T.55. 2154.4. 0520a18) thì ngài Đàm-vô-sấm phiên dịch được mười chín bộ kinh, gồm 131 quyển.

[4] Đại bát Niết-bàn kinh 大般涅槃經 (T.12. 0375.8. 640b10-640b22)

[5] Ba-la-di (波羅夷): Bất cộng trụ pháp, tức bốn tội trọng. Vị tỳ-kheo phạm vào tội Ba-la-di thì phải trục xuất, không còn được sống chung với các Tỳ-kheo khác. Bốn tội Ba-la-di của tỳ-kheo là: 1. Đại dâm giới; 2. Đại đạo giới; 3. Đại sát giới; 4. Đại vọng ngữ giới. Tham chiếu: Ma-ha tăng kỳ luật 摩訶僧祇律 (T.22. 1425.38. 0535a27).

[6] Thánh Nghiêm tự truyện, Hạnh Đoan biên dịch, NXB. Phương Đông, 2010.

[7] Thánh Nghiêm tự truyện, Hạnh Đoan biên dịch, NXB. Phương Đông, 2010, tr.85.

[8] Thánh Nghiêm tự truyện, Hạnh Đoan biên dịch, NXB. Phương Đông, 2010, tr.89.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1641)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1623)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1026)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1506)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1474)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1666)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1923)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1516)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1349)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1367)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1539)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1138)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1263)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1270)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1692)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1637)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2979)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1820)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1361)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1218)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1274)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1402)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1316)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1917)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1677)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1885)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1812)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2384)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1778)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2111)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2186)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2293)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1849)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1969)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2027)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1951)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2588)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1940)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1879)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1939)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1884)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2154)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2295)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1962)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2070)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1865)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1901)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2405)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2315)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3980)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2467)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3181)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2465)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2042)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1794)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3301)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2340)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3020)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2698)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant