Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Sự Xuất Hiện Của Vũ Trụ Theo Kinh Hoa Nghiêm

10 Tháng Giêng 202219:56(Xem: 2624)
Sự Xuất Hiện Của Vũ Trụ Theo Kinh Hoa Nghiêm

Sự Xuất Hiện Của Vũ Trụ Theo Kinh Hoa Nghiêm

Nguyễn Thế Đăng

Duyên Tam Bảo 


Thế giới
chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm, hay còn gọi là “Thế giới Hoa tạng hải”, hay còn gọi là pháp giới. Tất cả các thế giới xuất hiện của phàm và của thánh đều nằm trong Hoa tạng thế giới hải:

Bấy giờ Đại Bồ tát Phổ Hiền do thần lực Phật, quán sát khắp tất cả thế giới hải, tất cả chúng sanh hải, tất cả chư Phật hải, tất cả pháp giới hải, tất cả chúng sanh nghiệp hải, tất cả chúng sanh căn dục hải, tất cả chư Phật pháp luân hải, tất cả tam thế hải, tất cả Như Lai nguyện lực hải, tất cả Như Lai thần biến hải.

Trí huệ công đức biển rất sâu
Hiện khắp mười phương vô lượng cõi
Tùy các chúng sanh chỗ hợp thấy
Ánh sáng soi khắp chuyển pháp luân…

(Phẩm Thế giới thành tựu thứ 4).

Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu vũ trụ xuất hiện trên nền tảng gì và sự xuất hiện ấy thực sự là gì, theo phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ 1 của Kinh Hoa Nghiêm.

 

1/ Ánh sáng vô ngại là nền tảng cho vũ trụ xuất hiện.

Kinh mở đầu bằng diễn tả quang cảnh pháp hội diễn ra ở Bồ đề đạo tràng như sau:

Như vậy tôi nghe, một thời Phật ở nước Ma Kiệt Đề trong pháp thanh tịnhđạo tràng Bồ đề, vừa thành Vô thượng Giác ngộ. Nơi đó đất cứng chắc, làm bằng kim cương, trang nghiêm bằng các luân báu, các hoa báu, ngọc ma ni thanh tịnh. Biển các sắc tướng vô biên hiển hiện, ngọc ma ni làm tràng phướn thường phóng ánh sáng, hằng vang tiếng vi diệu. Các lưới báu, tràng hoa thơm giăng rủ chung quanh. Ma ni bửu vương biến hiện tự tại, mưa vô tận các châu báu và hoa đẹp rải khắp mặt đất. Các cây báu thành hàng, cành lá tốt tươi tỏa sáng.

Do thần lực Phật khiến cho trong đạo tràng này tất cả sự trang nghiêm được ảnh hiện.

Cây Bồ đề cao lớn lạ thường, kim cương làm thân, lưu ly làm cành, nhánh bằng nhiều chất báu tốt đẹp, lá báu giăng che như mây, hoa báu đủ màu, phân nhánh tủa ra, trái bằng ngọc ma ni ngậm chứa ánh sáng, cùng hoa xen bày. Cây Bồ đề phóng ánh sáng khắp chung quanh, trong ánh sáng mưa xuống ngọc quý ma ni, trong ngọc ma ni có các Bồ tát như mây đồng thời xuất hiện. Lại do thần lực Như Lai, cây Bồ đề này thường vang tiếng vi diệu thuyết tất cả pháp khôngcùng tận”.

Đoạn kinh mở đầu này cho thấy quang cảnh đạo tràng Bồ đề, nơi Phật vừa giác ngộ. Toàn thể cảnh vật được bao trùm bởi ánh sáng (quang minh) qua mỗi sự vật được tạo thành bằng những chất quý báu, đều tỏa ánh sáng (phóng quang), ánh sáng từ trong mỗi sự vật. Mỗi sự vật đều làm bằng chất quý báu, bằng kim cương, lưu ly, ngọc ma ni… đều phóng ánh sáng, nghĩa là mỗi sự vật đều có tinh chất, tinh túy (essence) là ánh sáng.

Chính trong quang cảnh ánh sáng thường hằng ấy mà mọi sự xuất hiện, kể cả các Bồ tát. Đoạn kinh mở đầu này có nhiều chữ hiện: “biển các sắc tướng vô biên hiển hiện”, “các Bồ tát như mây đồng thời xuất hiện”, “do thần lực Phật khiến cho trong đạo tràng này tất cả sự trang nghiêm được ảnh hiện”.

Ánh sáng thường hằng ấy là ánh sáng nền tảng, nhưng ánh sáng nền tảng ấy không làm mất các ánh sáng của từng sự vật, cho nên các sự vật vẫn được “ảnh hiện”. Ảnh hiện là “biển các sắc tướng vô biên hiển hiện”, mỗi sắc tướng đều được hiển hiện bằng ánh sáng riêng của nó trên nền tảng ánh sáng “thường hằng”, không trộn lẫn, không hòa thành một ánh sáng duy nhất. Bởi vì nếu chỉ có một ánh sáng duy nhất thì sẽ không có sự xuất hiện của vũ trụ với vô vàn sắc tướng khác biệt.

 

Phật của Kinh Hoa NghiêmPhật Pháp thân Tỳ Lô Giá Na (Vairocana), được dịch là Đại Nhật, Phổ Quang Minh, Quang Minh Biến Chiếu, Đại Quang Minh Tạng, những danh hiệu này lấy từ Kinh Hoa Nghiêm. Một tính chất của Phật Tỳ Lô Giá Naquang minh (ánh sáng):

Như Lai thân phóng đại quang minh

Quang chiếu pháp giới đều đầy khắp.

(Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ 1)

Như vậy chính trong và trên nền tảng ánh sáng Phật mà biển các sắc tướng vô biên hiển hiện, tất cả sự trang nghiêm được ảnh hiện. Ảnh hiện là hiện bóng. Trong ánh sáng Phật, sự vật không còn là vật chất, cứng đặc, mà là hiện bóng. Trong tấm gương sáng của Đại Viên Cảnh Trí, tất cả mọi sự vật đều hiện bóng trong đó. Trong tấm gương sáng Đại Viên Cảnh Trí, trong Phật Tỳ Lô Giá Na, tất cả mọi sự vật không còn bị trói buộc trong tính vật chất nặng nề cứng đặc mà là ảnh hiện của ánh sáng, do đó chúng tự do, giải thoát. Giải thoát trong ánh sáng.

 

2/Các Bồ tát trong đạo tràng Bồ đề

Kinh nói tiếp:

Cung điện lâu đài chỗ ở của Như Lai rộng rãi trang nghiêm đầy khắp mười phương. Các ngọc ma ni nhiều màu hợp thành, đủ thứ hoa đẹp, những đồ trang nghiêm tuôn ánh sáng như mây, hợp ảnh thành bảo tràng trong cung điện.

Vô biên Bồ tátchúng hội đạo tràng đều họp lại nơi đó, nhờ năng lực của chư Phật mà xuất hiện ánh sáng và âm thanh chẳng thể nghĩ bàn. Ma ni bảo vương kết thành lưới. Lực thần thông tự tại của Như Lai khiến tất cả cảnh giới đều từ trong lưới báu mà xuất hiện, tất cả chúng sanh và nhà cửa nơi chốn đều hiện hình bóng trong đó. Lại do thần lực của chư Phật gia trì, trong khoảnh khắc một niệm, tất cả pháp giới đều bao gồm trong lưới.

Tòa sư tử cao rộng tốt đẹp kỳ diệu: đài bằng ma ni, lưới bằng hoa sen, vòng quanh bằng ngọc báu đẹp đẽ thanh tịnh. Các hoa đủ màu thành kết thành tràng. Cung điện, mái vòm, các cửa, bậc thềm, hình thể trang nghiêm hoàn thiện. Cây, cành, quả báu bao quanh xen bày. Mây ánh sáng ma ni chiếu soi lẫn nhau: chư Phật mười phương hóa hiện nơi châu vương. Bảo châu vi diệu trong búi tóc đỉnh đầu của tất cả Bồ tát đều phóng quang minh soi sáng mọi sự. Lại do oai thần của chư Phật hộ trì, diễn nói cảnh giới rộng lớn của Như Lai, diệu âm vang xa không chỗ nào chẳng đến”.

 

Trong cung điện lâu đài chỗ ở của Phật, mọi sự đều đẹp đẽ, trang nghiêm, hoàn thiện, và mọi sự đều phóng ánh sáng soi chiếu lẫn nhau, mọi sự đều ảnh hiện lẫn nhau. “Hợp ảnh” nghĩa là các ảnh trùng trùng soi chiếu, phản ảnh lẫn nhau.

Quang cảnh chung quanh là y báo. Y báo ấy được sự gia trì, hộ trì bằng chánh báo, tức là sự giác ngộ hoàn toàn bản tánh của tất cả các pháp (pháp tánh). Sự gia trì, hộ trì của chánh báo giác ngộ là ánh sáng làm nền tảng cho mọi sự xuất hiện.

Vũ trụ xuất hiện trong lưới báu kết bằng vô số ngọc, tất cả ảnh hiện lẫn nhau trùng trùng vô tận: “Lại do thần lực của chư Phật gia trì, trong khoảnh khắc một niệm, tất cả pháp giới đều bao gồm trong lưới”.

Với một vị Phật đã hoàn toàn chứng đắc Pháp thân và những đại Bồ tát Pháp thân, nghĩa là chứng một phần trong Mười Địa Pháp thân, vũ trụ hay pháp giới xuất hiện như những ảnh hiện trong lưới ngọc phát sáng trùng trùng phản chiếu lẫn nhau.

Tất cả cảnh giới của chư Phật và chúng sanh, tất cả pháp giới đều hiện trong lưới báu, và sự việc ấy được gọi là “hóa hiện”: “Chư Phật mười phương hóa hiện nơi chân vương”. Pháp giới là sự hóa hiện của Phật Pháp thân Tỳ Lô Giá Na, pháp giớiHóa thân vô số không thể nghĩ bàn của Phật Pháp thân Tỳ Lô Giá Na:

Những cây ma ni bằng chất báu
Mỗi chất báu đều phóng quang minh
Tỳ Lô Giá Na thanh tịnh thân
Hiện vào trong đó đều khắp thấy.
Trong những trang nghiêm hiện thân Phật
Sắc tướng vô biên vô lượng số
Đi đến mười phương khắp mọi nơi
Hóa độ chúng sanh cũng vô lượng.

(Phẩm Hoa Tạng thế giới thứ 5).

3/ Đức Phậtđạo tràng Bồ đề

Hai đoạn Kinh trên nói về đạo tràng Bồ đề và các đại Bồ tát, đoạn kinh tiếp theo sau nói về Đức Phật.

Bấy giờ, Thế Tôn ở nơi tòa này, thành tựu Giác ngộ tối thượng đối với tất cả pháp: trí chứng nhập ba đời đều bình đẳng, thân Phật đầy khắp tất cả thế gian, tiếng Phật thuận vào khắp mười phương các cõi nước. Ví như hư không bao gồm tất cả sắc tượng, nơi tất cả cảnh giới không chỗ phân biệt. Lại như hư không toàn khắp tất cả, bình đẳng nhập vào tất cả cõi nước. Thân Phật hằng ngồi tòa khắp trong tất cả đạo tràng, oai quang sáng rỡ trong chúng Bồ tát, như mặt trời mọc chiếu sáng thế giới. Biển lớn phước đức thực hành trong ba đời đều đã thanh tịnh nhưng thường thị hiện sanh vào cõi nước chư Phật. Vô biên sắc tướng đầy đủ ánh sáng cùng khắp pháp giới bình đẳng không sai khác, diễn nói tất cả pháp như bủa mây lớn.

Mỗi mỗi đầu sợi lông đều có thể dung chứa tất cả thế giới mà không có chướng ngại. Đều hiện vô lượng thần thông lực giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh. Thân khắp mười phương mà không đến, đi. Trí vào tất cả tướng, rõ tất cả pháp là không tịch. Thần biến của chư Phật ba đời đều thấy trong ánh sáng. Tất cả sự trang nghiêm của tất cả cõi Phật trong vô số kiếp đều được hiển hiện”.

Ở đây Kinh nói cho chúng ta biết sự thành tựu Giác ngộ Tối thượng của đức Phật Thích Ca như thế nào để chúng ta có thể học, nghiên cứu (Văn). Từ cái hiểu biết dù chỉ ở mức độ thức thứ sáu là ý thức, chúng ta có thể phát khởi sự hâm mộ, lòng sùng tín, quyết tâm, làm động lực ban đầu để đi trên con đường Phật đạo.

Cái học, cái hiểu ấy càng rõ ràng thêm khi chúng ta tư duy sâu sắc về sự Giác ngộ của Phật khiến có thêm niềm tin, sự chắc thật để thực hành thiền định thiền quán (Tu) và dần dần tiếp cận sự thật mà đức Phật đã giác ngộ như chư Phật đã giác ngộ. Sự giác ngộ ấy là giác ngộ hoàn toàn Pháp thân, mà các kinh điển đều nói là “Pháp thân của tất cả chư Phật”, nghĩa là Pháp thân là chung cho tất cả chư Phật. 

“Giác ngộ tất cả pháp” là gì? Là biết rõ, biết trọn vẹn bản tánh của tất cả các pháp là tánh Không, đồng thời biết rõ sự khác biệt của tất cả những hiện tướng của tất cả các pháp. Đây là điều các Kinh nói, “thấu rõ tánh, tướng của tất cả các pháp”.

Do giác ngộ tất cả các pháp nên “thân Phật đầy khắp tất cả thế gian, tiếng Phật thuận vào khắp mười phương các cõi nước”. Khi giác ngộ thì thân, khẩu, ý trở thành Pháp thân và do đó trùm khắp vũ trụ, pháp giới, “tiếng Phật vào khắp tất cả cõi nước”. Pháp thântánh Không, nên “như hư không, toàn khắp tất cả, bình đẳng nhập vào tất cả cõi nước”.

Tánh Khôngquang minh, ánh sáng, vốn không hai, nên khi là Pháp thân tánh Khôngnhư hư không toàn khắp tất cả, bình đẳng nhập vào tất cả các cõi nước” thì “thân Phật thường ngồi tòa trong tất cả đạo tràng, oai quang sáng rỡ trong chúng Bồ tát, như mặt trời mọc chiếu sáng thế giới”.

Bồ tát đạo bắt đầu từ Tư Lương vị, thực hành hai sự tích tập phước đứctrí huệ, cho đến khi thành Phật thì hai sự tích tập phước đứctrí huệ đầy đủ trọn vẹn, nên Phật được xưng là Lưỡng Túc Tôn (bậc hai sự tích tập đã đầy đủ). Thế nên, “biển lớn phước đức thực hành trong ba đời đều đã thanh tịnh nhưng thường thị hiện sanh vào cõi nước chư Phật”. Phước đứctrí huệ tròn đủ, tức là Ba thân, Pháp thân, Báo thânHóa thân thành tựu hoàn toàn, nên “vô biên sắc tướng đầy đủ ánh sáng cùng khắp pháp giới bình đẳng không sai khác, diễn nói tất cả pháp như bủa mây lớn”.

Trong các Kinh Đại thừa, thỉnh thoảng có nói đến cảnh giớisự sự vô ngại” của các Đại Bồ tát và chư Phật, nhưng chỉ qua một hai trang. Riêng Kinh Hoa Nghiêm, toàn bộ Kinh xiển dương cảnh giới sự sự vô ngại, ngay đoạn mở đầu của Kinh chúng ta đã thấy nói đến cảnh giới sự sự vô ngại: “Mỗi mỗi đầu sợi lông đều có thể dung chứa tất cả thế giới mà không có chướng ngại”.

Sự sự vô ngại của Phật là sự vô ngại của Ba thânpháp giớiBa thân vô ngại với nhau. Pháp thântánh Không: “Thân khắp mười phương mà không đến, đi. Trí vào tất cả tướng, rõ tất cả các pháp là không tịch”. Báo thân là ánh sáng: “Thần biến của chư Phật ba đời đều thấy trong ánh sáng”. Hóa thânnăng lực hóa hiện: “Thường thị hiện sanh vào cõi nước chư Phật. Đều hiện vô lượng thần thông lực giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh. Thần biến của chư Phật ba đời đều thấy trong ánh sáng.”

Như thế, vũ trụ của người bình thường trở thành pháp giới, là sự biến hiện trang nghiêm của Ba thân Phật: “Tất cả sự trang nghiêm của tất cả cõi Phật trong vô số kiếp đều được hiển hiện”.

Đó cũng là ý nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm, tức là “trang nghiêm bằng hoa”, và tất cả các hoa “sự sự vô ngạivới nhau, trùng trùng ảnh hiện, hợp ảnh lẫn nhau.        

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1621)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1613)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1008)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1481)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1466)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1644)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1911)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1493)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1328)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1347)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1520)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1117)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1241)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1246)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1674)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1626)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2916)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1799)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1353)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1210)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1265)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1384)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1303)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1901)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1655)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1867)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1798)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2372)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1774)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2102)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2171)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2283)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1830)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1955)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2003)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1921)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2566)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1921)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1852)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1926)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1869)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2131)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2279)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1946)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2052)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1839)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1884)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2391)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2304)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3922)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2454)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3155)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2446)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2032)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1784)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3286)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2327)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3003)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2680)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant