Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thế Giới Chuyển Biến, Theo Kinh Hoa Nghiêm

20 Tháng Giêng 202220:04(Xem: 2023)
Thế Giới Chuyển Biến, Theo Kinh Hoa Nghiêm

Thế Giới Chuyển Biến, Theo Kinh Hoa Nghiêm

Nguyễn Thế Đăng

hinh phat 2


Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh? Chúng ta sẽ tìm hiểu để thực hành những vấn đề này theo phẩm Thế giới thành tựu thứ tư của Kinh Hoa Nghiêm.

1/ Vũ trụ này thực sự là gì?

Trí huệ công đức biển rất sâu

Hiện khắp mười phương vô lượng cõi

Tùy các chúng sanh đáng được thấy

Quang minh chiếu khắp chuyển pháp luân.

Mười phương biển cõi chẳng nghĩ bàn

Phật vô lượng kiếp đều nghiêm tịnh

Vì độ chúng sanh khiến thành thục

Xuất hiện tất cả các cõi nước.

Vũ trụ này là “biển trí huệ, công đức hiện khắp mười phương cõi” của Phật Tỳ Lô Giá Na. Vũ trụ này là “ánh sáng chiếu khắp chuyển pháp luân” của Phật. Vũ trụ này là “mười phương biển cõi chẳng thể nghĩ bàn, đều trang nghiêm thanh tịnh từ vô lượng kiếp của Phật”.

Nghe được (Văn) như thế, suy nghĩ sâu sắc (Tư) về vũ trụ Phật như thế, và thiền định thiền quán (Tu) vũ trụ Phật ấy, người thực hành sẽ thấy vũ trụ này là “sự chuyển pháp luân khắp cả” của Phật Tỳ Lô Giá Na. Đó gọi là Nhập Pháp Giới, như tựa đề của phẩm cuối cùng của Kinh Hoa Nghiêm. Pháp giới này, là cảnh giới Phật Tỳ Lô Giá Na.

Chúng sanh rộng lớn đến vô biên

Như Lai tất cả đều hộ niệm

Chuyển chánh pháp luân khắp mọi nơi

Đây là cảnh giới Tỳ Lô Phật.

Cảnh giới ấy là Pháp thân Tỳ Lô Giá Na thị hiện thành Báo thân quang minhHóa thân tức là tất cả vũ trụ, cho đến trong mỗi hạt bụi.

Pháp thân chư Phật chẳng nghĩ bàn

Không sắc không hình không ảnh tượng

chúng sanh hiện tướng sai khác

Tùy tâm họ thích đều khiến thấy

Tất cả cõi nước những hạt bụi

Trong mỗi hạt bụi Phật đều nhập

Khắp vì chúng sanh hiện thần biến

Pháp Tỳ Lô Giá Na như vậy.

2/ Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh?

Thế nhưng chính trong và trên pháp giới Tỳ Lô Giá Na Đại Quang Minh Tạng này lại có những thế giới nhiễm ô bất tịnh của chúng sanh sanh ra, đó là do:

Chúng sanh bị phiền não loạn nhiễm

Phân biệt ham muốn chẳng một tướng

Tùy tâm tạo nghiệp chẳng nghĩ bàn

Tất cả biển cõi đều thành lập.

Tất cả các cõi nước nhiễm ô bất tịnh đều do tâm nhiễm ô bất tịnh của chúng sanh mà sanh ra:

Tất cả các cõi nước

Đều tùy nghiệp lực sanh

Các ông nên quan sát

Tướng chuyển biến như vậy.

Những chúng sanh nhiễm ô

Nghiệp phiền não đáng sợ

Tâm họ khiến cõi nước

Tất cả thành nhiễm ô.

Phân biệt và các phiền não tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ… đã làm cho pháp giới “một tướng” thành những phân mảnh đối nghịch nhau, chống đối nhau, thành sanh tử khổ đau. Phân biệt và các phiền não tích tập nhiều thì thành tập khí (những khuynh hướng thói quen, habitual tendencies), đây là cơ sở cho thế giới nhiễm ô nhưng tạm thời, thành lập một cách hư vọng, hiện khởi.

Tất cả cõi do tâm phân biệt

Quang minh soi đến mà hiện ra

Chư Phật ở trong những cõi ấy

Nơi nơi thị hiện thần thông lực.

Có cõi tạp nhiễm hoặc thanh tịnh

Chịu khổ hưởng vui đều khác nhau

Đều do biển nghiệp chẳng nghĩ bàn

Các pháp lưu chuyển luôn như vậy.

Trong một chân lông vô lượng cõi

Đồng số hạt bụi mà an trụ

Mỗi cõi đều có Phật Biến Chiếu

Ở trong chúng hội diễn diệu pháp.

Tất cả các cõi nhiễm ô bất tịnh đều do tâm phân biệt chứa những thứ phiền nãoxuất hiện. Nhưng dù xuất hiện nhiễm ô bất tịnh thế nào thì chúng cũng phải xuất hiệnhiện hữu trên nền tảng quang minh của Phật Tỳ Lô Giá Na Biến Chiếu: “Quang minh soi đến mà hiện ra, chư Phật ở trong những cõi ấy, nơi nơi thị hiện thần thông lực”.

Cụ thể, một ý tưởng, một niệm phân biệt, phiền não của mỗi chúng ta đều chỉ hiện khởi được trên nền tảng ánh sáng của Pháp thân Phật. Nó hiện hữu chốc lát và lại tan vào ánh sáng của Pháp thân Phật. Đây là sự thực hành thiền địnhthiền quán để tâm càng ngày càng sâu rộng cho đến lúc tương ưng được với Pháp giới Tỳ Lô Giá Na.

Để tương ưng, vào được pháp giới Phật Tỳ Lô Giá Na “hiện khắp mười phương vô lượng cõi”, hành giả bắt đầu bằng lòng tin trong sạch để hành đạo Bồ tát, mà trọn vẹn là hạnh Bồ tát Phổ Hiền:

Cảnh Phật rất sâu khó nghĩ bàn

Khắp dạy chúng sanh khiến được vào

Tâm họ ưa nhỏ chấp các cõi

Chẳng thông đạt được cảnh giới Phật.

Nếu lòng tin trong sạch vững chắc

Thường được gần gũi thiện tri thức

Tất cả chư Phật hộ niệm cho

Đây mới vào được Như Lai trí.

Lìa các nịnh dối tâm thanh tịnh

Thường vui từ bi tánh hoan hỷ

Chí nguyện rộng lớn tin hiểu sâu

Khi nghe pháp này lòng vui đẹp.

An trụ Phổ Hiền những hạnh nguyện

Tu hành đạo Bồ tát thanh tịnh

Quan sát pháp giới như hư không

Bèn biết cảnh giới hạnh của Phật.

3/ Các thế giới chuyển biến

Bấy giờ, Bồ tát Phổ Hiền lại bảo đại chúng rằng:

Các Phật tử! Nên biết thế giới hải có số nhiều như hạt bụi của thế giới hải kiếp chuyển biến khác nhau. Vì pháp như vậy nên thế giới hảivô lượng kiếp thành kiếp hoại chuyển biến. Vì chúng sanh nhiễm ô nên thế giới hải chuyển biến thành kiếp nhiễm ô. Vì chúng sanh tu phước rộng lớn nên thế giới hải chuyển biến thành kiếp nhiễm tịnh. Vì Bồ tát tin hiểu trú ngụ nên thế giới hải chuyển biến thành kiếp nhiễm tịnh. Vì vô lượng chúng sanh phát Bồ đề tâm nên thế giới hải chuyển biến thành kiếp thanh tịnh. Vì các Bồ tát đều đi khắp các thế giới nên thế giới hải vô biên kiếp chuyển biến trang nghiêm. Vì mười phương tất cả các Bồ tát vân tập nên thế giới hải vô lượng kiếp chuyển biến đại trang nghiêm. Vì chư Phật vào Niết bàn nên thế giới hải kiếp trang nghiêm chuyển biến diệt. Vì chư Phật xuất hiện ra đời nên tất cả thế giới hải kiếp rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh chuyển biến. Vì thần thông biến hóa của Như Lai nên thế giới hải kiếp chuyển biến thanh tịnh khắp. Có vi trần số kiếp chuyển biến như vậy”.

Những thế giới hải, những biển thế giới (y báo) có vô số chuyển biến, tùy theo thân tâm (chánh báo) của tất cả chúng sanh sống trong đó. Cho nên bài kệ Bồ tát Phổ Hiền khi tuyên lại nghĩa này đã mở đầu:

Tất cả những cõi nước

Đều tùy nghiệp lực sanh

Các ngài nên quan sát

Tướng chuyển biến như vậy.

Những chúng sanh nhiễm ô

Nghiệp phiền não đáng sợ

Tâm họ khiến cõi nước

Tất cả thành nhiễm ô.

Nếu có tâm thanh tịnh

Tu những hạnh phước đức

Tâm họ khiến cõi nước

Tạp nhiễmthanh tịnh.

Những thế giới chúng sanh sanh ra là do nghiệp lực. Nghiệp nhiễm ô phiền não thì thế giới chuyển biến thành nhiễm ô, và nếu chúng sanhtâm thanh tịnh, làm hạnh phước đức thì thế giới tạp nhiễm dần dần chuyển biến thành thanh tịnh. Thế giới này tốt hơn hay xấu hơn tùy thuộc vào tâm và hạnh của con người sống trong đó chuyển biến tốt hơn hay xấu hơn. Và thực hành đạo Phậtcon đường để con người chuyển biếnthế giới chuyển biến thành tốt đẹp thanh tịnh.

Cho nên sự sắp xếp các thế giới chuyển biến thành thanh tịnh tùy theo cấp độ tâm hạnh thanh tịnh của các Bồ tát cho đến Phật.

Các Bồ tát tin hiểu

Sanh vào trong kiếp kia

Tùy tâm Bồ tát này

Cõi nước đủ tịnh nhiễm.

Vô lượng số chúng sanh

Đều phát tâm Bồ đề

Tâm họ khiến cõi nước

Kiếp trụ thường thanh tịnh.

Bồ tát tin hiểu ở cấp Mười tín, Mười trụ, Mười hạnh, Mười hồi hướng. Bồ tát này chưa chứng Pháp thân ở cấp Mười Địa, nhưng tâm hạnh đã bắt đầu đẩy lùi nhiễm ô của thế giới nên thế giới vừa có nhiễm vừa có tịnh.

Còn nếu tất cả vô lượng số chúng sanh trong thế giới ấy đều phát Bồ đề tâm thì kiếp trụ của thế giới ấy thường thanh tịnh. Đây là hàng Bồ tát sơ phát tâm, nhưng nếu tất cả chúng sanh trong thế giới đều phát Bồ đề tâm và phát triển Bồ đề tâm ấy trong mọi mặt của đời sống hàng ngày thì thế giới ấy thường thanh tịnh.

Phát Bồ đề tâm nguyện và làm Bồ đề tâm hạnh là trụ cột làm thế giới chuyển biến.

Vô lượng ức Bồ tát

Đến khắp mười phương cõi

Trang nghiêm không khác nhau

Trong kiếp thấy sai khác.

Vô lượng ức Bồ tát đến khắp mười phương cõi, đều dùng hạnh Bồ tát để trang nghiêm, nên nói là “trang nghiêm không khác nhau”, cho các cõi nước. Đây là hàng Bồ tát Pháp thân, mà đời sống của các ngài là “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”.

Các Bồ tát Pháp thân đều cùng một hạnh “trang nghiêm không khác nhau”, đều cùng “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”, nhưng vì có những cõi có tịnh có nhiễm nên những chúng sanh ở các cõi đó thấy các Bồ tát ấy và y báo, tức là thế giới của các ngài, có sai khác, “trong kiếp thấy sai khác”. Chúng sanh thấy có sai khác vì nghiệp của họ có sai khác, nhưng các Bồ tát Pháp thân đều được các kinh gọi là các Phật tử, các con Phật, nghĩa là cùng một dòng máu Phật, một hạnh Phật, và cái thấy của các ngài, dầu chưa hoàn toàn, thì thế giới này với riêng các ngài bắt đầu hiện thành thế giới thanh tịnh của Phật. Cũng do cái thấy và hạnh thanh tịnh này mà các Bồ tát có thể chịu đựng được, nhẫn chịu được những nghiệp sai khác nhau của chúng sanh, vì Bồ tát đã thấy được “thật tướng của tất cả các hiện tượng (các pháp)”. Với tâm thanh tịnh (chánh báo) các vị có thể sống trong thế giới thanh tịnh (y báo) của riêng mình, bất chấp nghiệp nhiễm ô của chúng sanh, bất chấp thế giới nhiễm tịnh của chúng sanh.

Cho đến khi hoàn toàn thanh tịnh, hoàn toàn đạt được Pháp thân thì Bồ tát thấy được, thân chứng được thế giới nhiễm tịnh này, thậm chí trong từng hạt bụi, là pháp giới của Phật. Hay nói cách khác, pháp giới là sự thị hiện của Pháp thân, Báo thânHóa thân của Phật Tỳ Lô Giá Na.

Trong mỗi mỗi hạt bụi

Cõi Phật nhiều như bụi

Bồ tát cùng vân tập

Cõi nước đều thanh tịnh.

dĩ nhiên, với chư Phật, tất cả pháp giới đều xưa nay thanh tịnh, hoàn toàn trang nghiêm, hoàn toàntịnh độ. Thế nên, đối với một vị Phật thì nhập Niết bàn hay ứng hiện ra đời thì vẫn là Pháp thân, Báo thânHóa thân bất biến không dứt. Nhưng với chúng sanh, nếu có Phật ra đời, nghĩa là có thị hiện thành Hóa thân hay Sắc thân ở cõi này để chúng sanh có thể thấy, nghe, tri giác thì họ có đủ hoàn cảnh, điều kiện, đủ duyên để làm “pháp khí” hầu nâng cấp mình cho đến giải thoát, giác ngộ. Do tâm hạnh thanh tịnh ấy nên cõi này có đủ sự trang nghiêm.

Nếu Phật nhập Niết bàn, vào cõi Thường Tịch Quang (theo kinh Đại Bát Niết Bàn), trong đó vẫn đủ cả Ba Thân, nhưng không có Hóa thân ở cõi này, chúng sanh không còn thấy Hóa thân Phật, không còn chỗ cụ thể để nương nhờ, quy y, để trở thành pháp khí, cho tâm dễ dàng thanh tịnh mà thấy được “đầy đủ sự trang nghiêm” của Phật, Pháp, Tăng, thường trụ.

Thế tôn nhập Niết bàn

Cõi ấy trang nghiêm diệt

Chúng sanh chẳng pháp khí

Thế giới thành tạp nhiễm.

Nếu có Phật ra đời

Cõi nước đều tốt đẹp

Tùy tâm họ thanh tịnh

Trang nghiêm đều đầy đủ.

Lực thần thông chư Phật

Thị hiện chẳng nghĩ bàn

Bấy giờ các biển cõi

Tất cả khắp thanh tịnh.

Như vậy, thế giới chuyển biến là do con người sống trong đó chuyển biến, tịnh hóa thân tâm và thế giới của mình và người. Đây là công việc Phật hóa thân tâm và thế giới của mình và người, Phật hóa toàn bộ chánh báoy báo của tất cả mọi người.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4519)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4564)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7333)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2963)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12219)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3992)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3807)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4221)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3686)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5064)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6683)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4006)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4123)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5337)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3786)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4528)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3551)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3930)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4389)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5393)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3841)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3940)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3872)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4825)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4524)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4257)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3828)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4635)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4206)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6109)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4608)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4946)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4191)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4824)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5669)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3649)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4034)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4590)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5286)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3146)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4764)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4556)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4290)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4740)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4490)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4606)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7217)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5212)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5007)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4594)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5618)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5271)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4161)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6008)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4716)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4876)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5483)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5618)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5820)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4996)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant