Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Từ Ánh Bồ Đề

25 Tháng Giêng 202219:29(Xem: 2670)
Từ Ánh Bồ Đề
TỪ ÁNH BỒ ĐỀ

Huỳnh Ngọc Chiến

Cội Bồ Đề

Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền trong bóng đêm bao la mù mịt khiến họ cảm thấy kinh hãi trước sự vĩ đại của cái bao la huyền mật. Toàn thế giới như luôn bị điều động và chi phối bởi những thế lực siêu nhiên. Một vì sao đổi ngôi cũng có thể là cỗ xe của đấng Tối Cao đang di chuyển, một tia chớp cũng trở thành cơn thịnh nộ của thần linh, một tiếng sóng vỗ cũng là âm thanh của yêu ma quỷ quái. Con người dễ hoang mang vì cảm thấy mình quá nhỏ nhoi trước vũ trụ mịt mùng. Họ đốt lửa và hiến dâng lễ vật lên cõi thiên thượng để cầu xin ân huệ, và hy vọng ngọn lửa đó sẽ soi sáng được đường đi. Thế rồi, ánh dương xuất hiện, chiếu ánh sáng lan tỏa dần trên khắp mặt biển, xua tan đi bóng đêm để cho thế giới được toàn nhiên hiển lộ. Đoàn người giờ đây đã nhìn thấy rõ được cảnh vật, nên không còn lo sợ trước biển cả bao la, vì họ xác định được hướng đi, nên vững tay chèo để đến được bờ.

Đó là cảnh tượng mà ta có thể hình dung khi đọc lịch sử cổ đại của đất nước Ấn Độ cùng vùng Cận Đông và Trung Đông thời kỳ tiền Phật giáo. Suốt mấy ngàn năm dài trong lịch sử loài người, ngọn lửa tế thần đã bập bùng trong bóng tối vô minh của con người; nó được thắp sáng từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng mạng sống của không biết bao nhiều loài sinh vật vô tội, trong đó có cả con người. Máu của loài vật và máu của con người liên tục đổ xuống để làm chất đốt cho ngọn lửa hiến sinh quái dị. Giữa bóng tối của lòng kính tín mê muội trước các thần thánh siêu nhiên – vốn chỉ tồn tại trong trí tưởng; giữa tiếng kêu gào đau thương của muôn loài sinh vật bị tàn sát, cùng những đứa trẻ bị thiêu sống để hiến tế thần linh; giữa bóng đêm của đời sống tâm linh u tối đang tràn ngập trên cõi thế đó, đột nhiên, từ dưới gốc Bồ Đề ở một nơi hẻo lánh của đất nước Ấn Độ, bừng tỏa lên nguồn ánh sáng cùng với ánh sao Mai. Đó là ánh sáng giác ngộ của đức Phật Thích Ca!

Luồng ánh sáng đó dần dần lan tỏa ra khắp đất nước Ấn Độ rồi toàn thế giới, xua tan hết bóng đêm của huyền thoại đã bủa vây tâm trí con người hơn mấy ngàn năm, và quét sạch tất cả thần linh về cõi không hư của trí tưởng tượng. Lần đầu tiên, bản chất cùng căn nguyên của khổ đau và con đường giải thoát cho con người được chỉ ra một cách rõ ràng bằng thuyết Tứ diệu đế; lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, toàn bộ vũ trụ được trình bày theo một cấu trúc toàn bích theo tương quan duyên khởi; để rồi về sau phát triển thành kiến trúc vũ trụ vĩ đại trong tư tưởng Hoa Nghiêm, thành Tánh Không trong hệ thống tư tưởng Trung quán tông, hay thế giới siêu việt nhị biên trong tư tưởng kinh Bát Nhã. Nhưng trên tất cả, Phật pháp đem đến cho nhân loại một cái nhìn như thực về bản chất vô thường của cuộc sống để con người có thể từ bỏ tham dụcphát tâm cầu Đạo Vô Thượng bằng Trí và Bi. Đó là con đường duy nhất đưa đến giải thoát.

Không như học thuyết của Darwin, sau khi gạt bỏ vai trò của đấng Sáng Tạo ra khỏi sự vận động của vũ trụ bằng thuyết tiến hóa và chọn lọc tự nhiên, thì xã hội phương Tây lại đối diện với bờ vực thảm họa về đạo đức, khi mà những giá trị tối thượng của cuộc sống được đánh giá theo các tiêu chuẩn lạnh lùng của sinh học; cũng không như những nền triết học duy vật chủ trương phá hủy thần thoại, và đóng khung thế giới trong những giá trị vật chất cùng tầm nhận thức của giác quan, kết quả là đã đẩy thế giới tâm linh con người vào cõi sa mạc khô cằn, khiến con người dần trở nên lạnh lùng vô cảm như chính lý trí; ánh sáng giác ngộ của đức Phật lại khác hẳn, nó xua tan bóng đêm và quét sạch sương mù huyền thoại là để cho toàn bộ vũ trụ hiện tiền trong sự hòa điệu vĩ đại, và quy kết mọi diễn biến trong hiện tượng giới vào thế giới tâm linh. Điều đó sẽ khai phóng tâm thức con người trước những phương trời lồng lộng của tâm linhtư tưởng. Đó là điểm khác biệt giữa Phật giáo với những nền triết học phương Tây. Hầu hết những hệ thống triết học phương Tây đều mang tính tư biện, với rất ít ngoại lệ. Không một nền triết học phương Tây nào đi đôi với phương thức sống, và không bao giờ hướng đến sự tu tập tâm linh, vì chúng chỉ là món đồ chơi thuần túy trong trí tưởng tượng và lý luận, đúng như T.R.V. Murti nhận xét[1]. Viễn tượng về một thiên đường trần thế hay “Thế giới Đại Đồng” cho toàn thể nhân loại đâu phải là cái gì mới mẻ, mà đã được Phật giáo vạch ra từ rất lâu, trong những đại nguyện của chư Bồ Tát trong nhiều kinh điển đại thừa. Cho rằng có thể đạt đến thế giới đó bằng bạo lực và lý luận thì đó chỉ là quan niệm hoang đường của những người thô thiển về tâm lý, ngây thơ về đạo đức và nông cạn trong tư duy. Các Bồ Tát hẳn đã quán tưởng về cái thế giới lý tưởng đó, và liễu tri một cách sâu xa rằng con người chỉ có thể đạt đến nó sau khi đã gột sạch Tham-Sân-Si bằng Trí và Bi. Đó là con đường duy nhất; ngoài ra, không thể có bất kỳ một con đường nào khác.

Một điều thường thấy với những tôn giáo hữu thần là sự kết hợp giữa truyền bá giáo lý với đe dọa. Hỏa ngục luôn là nơi đày đọa đời đời cho những ai không tin vào chân lý được rao giảng trên những thanh gươm. Phật giáo, trái lại, đã chinh phục được hơn một nửa thế giới không phải bằng lửa và thanh gươm, mà chỉ bằng những chân lý thực tiễn, và để những chân lý đó tự chinh phục loài người bằng sự trải nghiệm trong thế giới tâm linh. Từ phương Đông của thế giới tâm linh, Phật giáo đã hội nhập vào thế giới duy lý phương Tây không phải bằng chủ nghĩa thần bí mơ hồ hay chủ nghĩa phiếm thần thô thiển, mà bằng ánh sáng giác ngộ và bằng nụ cười an nhiên thuần tịnh của Đức Phật. Đẹp biết mấy khi Đức Phật thanh thản mĩm cười trước những lời lăng mạ, vu khống và dạy môn đồ cũng thực hành như thế. Đây là hình ảnh dường như chỉ có trong Phật giáo. Như cánh sen nở trong bùn, hay con ngỗng bơi trong hồ nước, không có gì làm cho ô nhiễm được. Bởi vậy, những người nào tự cho rằng mình “hộ pháp” bằng cách lăng mạ những tôn giáo khác- chỉ vì tôn giáo đó đả kích Phật giáo- là đã hoàn toàn đi sai tông chỉ của Đức Phật.

Nhà nghiên cứu Havell cho rằng các đoàn truyền giáo mà vua Ashoka phái đi hoằng pháp ở khắp Ấn Độ, Tích Lan, thậm chí tới cả Syria, Ai Cập, và Hy Lạp khoảng cuối thế kỷ thứ 3 trước C.N có lẽ đã dọn đường cho những nơi này đón nhận Phúc Âm của Chúa Jesus[2]. Trên thế giới luôn có sức mạnh của lưỡi gươm và sức mạnh của chân lý. Sức mạnh của tư tưởng Phật giáosức mạnh trầm lặng của chân lý, không phải là sức mạnh thô bạo của lưỡi gươm. Khẩu hiệu “chân lý thuộc về kẻ mạnh” chỉ là “chân lý” của những tay đồ tể. Đó là “chân lý” của lũ sói trong truyện ngụ ngôn của La Fontaine. Người Phật tử chân chính không thể sống theo chân lý đó, mà sống theo chân lý khác : đó là chân lý tỏa ra từ ánh sáng giác ngộ của Đức Thế Tôn, dưới gốc Bồ Đề.


[1] T.V.Murti, Tánh Không – Cốt tuỷ triết học Phật giáo , Huỳnh Ngọc Chiến dịch, NXB Hồng Đức 2013, trang 57.

[2] “He [Ashoka] sent Buddhist missionaries to all parts of India and Ceylon, even to Syria, Egypt and Greece,  where, perhaps, they helped to prepare for the ethics of Christ” – W. Durant, Our Oriental Heritage, NXB Simon & Schuster, 1954, p.449

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11010)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10898)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13339)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11764)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13649)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11879)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11149)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12160)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12377)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20558)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12393)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12423)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11685)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11556)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22383)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13541)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29615)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11529)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16702)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 11966)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16803)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12047)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17895)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12615)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13135)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14719)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22577)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10561)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14020)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13858)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13681)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13835)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13889)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14808)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13817)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18389)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22770)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15376)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17298)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22389)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14231)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12556)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11138)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17739)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13179)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13086)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18772)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17162)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13476)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12888)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14685)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14631)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15833)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13479)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27404)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13208)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16666)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21353)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
(Xem: 18788)
Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ...
(Xem: 23044)
Tự tính các pháp chính là Tự Thể của các pháp. Vì các duyên hòa hợp sinh ra các pháp nên nếu các duyên tan rã thì các pháp mất do đó các pháp khôngtự tính cá biệt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant