Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bồ Đề Tâm Thành Tựu Vô Lượng Vô Biên Công Đức

11 Tháng Ba 202216:17(Xem: 1708)
Bồ Đề Tâm Thành Tựu Vô Lượng Vô Biên Công Đức

Bồ Đề Tâm Thành Tựu Vô Lượng Vô Biên Công Đức

Nguyễn Thế Đăng

bo de tam

 

Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm:

“Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnhBa đời chư Phật từ Bồ đề tâm mà xuất sanh. Vì thế nên nếu có ai phát tâm Vô thượng Bồ đề tức là đã xuất sanh vô lượng công đức, có thể nhiếp giữ khắp đạo Nhất thiết trí.

Thiện nam tử! Ví như có người được thuốc vô úy thì lìa năm sợ hãi: lửa không thiêu được, độc không hại được, dao không đứt được, nước không trôi được, khói không xông được. Cũng vậy, đại Bồ tát được thuốc Bồ đề tâm Nhất thiết trí thì lửa tham không thiêu, độc sân không hại, dao mê lầm không đứt, dòng sanh tử không cuốn trôi, khói tìm tòisuy nghĩ không xông được.

Ví như có người được thuốc giải thoát, thì vĩnh viễn không hoạn nạn. Cũng vậy, đại Bồ tát được thuốc trí giải thoát Bồ đề tâm thì lìa hẳn sanh tử hoạn nạn.

Ví như có người cầm giữ thuốc Vô thắng, tất cả oán địch không ai thắng nổi. Cũng vậy, đại Bồ tát cầm giữ thuốc vô thắng Bồ đề tâm thì hàng phục được tất cả ma quân.

Ví như có người cầm giữ thuốc Thiện kiến, trừ được tất cả bệnh tật mình có. Cũng vậy, đại Bồ tát cầm giữ thuốc thiện kiến Bồ đề tâm, trừ hết tất cả các bệnh phiền não…

(Phẩm Nhập pháp giớiKinh Hoa Nghiêm)

Trước hết, chúng ta thấy ở phần này, Bồ đề tâm cũng được ví như thuốc, hương, hoa, cây cối, đèn, kim cương… nhưng câu nói dài hơn, như vậy Bồ đề tâm được giảng rộng hơn và sâu hơn.

Bồ đề tâm trừ tất cả phiền não, các hoạn nạn, các quân ma… có trong tất cả các cõi sanh tửBồ đề tâm là thuốc cho tất cả chúng sanh, chữa lành tất cả các bệnh trong sanh tử.

Trong đoạn này, có hai lần nói đến Nhất thiết tríđạo Nhất thiết trí và Bồ đề tâm Nhất thiết tríBồ đề tâm gắn với Nhất thiết trí, mà Nhất thiết trí là Bồ đề tâm tuyệt đối. Như thế trong phần này, ngay từ đầu Bồ đề tâm tương đối do vị Bồ tát phát nguyện và thực hành đã được gắn liền với Bồ đề tâm tuyệt đối hay Nhất thiết trí của các bậc Giác ngộ.

Như hương hắc chiên đàn trên trời, nếu đốt một chỉ, mùi hương xông khắp tiểu thiên thế giớigiá trị của tất cả trân bảo trong tam thiên thế giới đều không bằng. Cũng vậy, hương Bồ đề tâm của đại Bồ tát trong một niệm công đức xông khắp pháp giới, tất cả công đức Thanh VănĐộc Giác đều không bằng được.

Như nơi hải đảo mọc cây Gia tử, rễ, thân, cành, lá, hoa, quả, tất cả chúng sanh thường lấy thọ dụng không lúc nào hết. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát, từ lúc phát khởi tâm bi nguyện cho đến thành Phậtchánh pháp trụ thế luôn thường lợi ích cho tất cả thế gian không hề cách ngưng.

Như tim đèn, tùy theo lớn nhỏ mà phát ánh sáng, nếu thêm dầu thì ánh sáng không bao giờ dứt. Cũng vậy, đèn Bồ đề tâm của đại Bồ tát đại nguyện làm tim ánh sáng chiếu pháp giới, thêm dầu đại bigiáo hóa chúng sanhtrang nghiêm cõi nước, thi hành Phật sự không thôi dứt…”

Bồ đề tâm là đèn ánh sáng trí huệ chiếu pháp giớiđại nguyện làm tim đèn, cháy mãi bằng dầu đại bi, để làm Phật sự là “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh.” Cả ba thí dụ đều nói trí huệ, nguyện và tâm bi của Bồ tát không thôi dứt, không cách ngưng, tỏa khắp pháp giới làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh. Như thế tầm ảnh hưởng và công việc của Bồ đề tâm là khắp cả pháp giới và Bồ đề tâm của Bồ tát là phương tiện trí, nguyện và bi để nhập pháp giới.

Như người giỏi phương pháp thu phục rồng, ở giữa loài rồng mà vẫn tự tại. Cũng vậy đại Bồ tát được pháp Bồ đề tâm khéo điều phục rồng, ở trong tất cả phiền não rồng vẫn được tự tại.

Như có tráng sĩ cầm mâu nhọn đâm thủng giáp cứng xuyên qua không ngại. Cũng vậy, đại Bồ tát dùng Bồ đề tâm bén nhọn đâm thủng những tà kiếnphiền nãoxuyên qua không ngại.

Như đại lực sĩ Ma ha na già, nếu nổi oai nộ thì trên trán nổi bướu lở, nếu bướu lở chưa khép thì tất cả người trong Diêm phù đề không ai chế phục được. Cũng vậy, đại Bồ tát nếu khởi đại bi thì ắt phát Bồ đề tâm, tâm ấy chưa xả thì tất cả thế gian, ma và dân ma không làm hại được…”

Bồ đề tâm như phương pháp thu phục rồng phiền não, đây là trí huệ phương tiện, có trí huệ phương tiện thì sống trong sanh tử phiền não mà có thể hóa giải và làm lợi lạc cho việc tu hành tự giácgiác thaBồ đề tâm cũng là đại bi mà tất cả thế gian, ma và dân ma không làm gì được. Bồ đề tâm là sự hợp nhất của trí huệ và đại bisức mạnh vô địch chiến thắng sự xấu ác và mê mờ của các cõi sanh tử.

Như có cây thuốc tên Vô sanh căn, do lực của cây này làm tăng trưởng tất cả cây ở Diêm phù đề. Cũng vậy do lực của cây Bồ đề tâm của đại Bồ tát làm cho tất cả các thiện pháp của hàng hữu họcvô học và các Bồ tát đều được tăng trưởng.

Như trên tòa kim cương trong Đại thiên thế giới có thể giữ được các Phật ngồi đạo trànghàng phục các ma, thành Vô thượng Chánh giác, tất cả các tòa khác không thể kham giữ được. Cũng vậy, Bồ đề tâm có thể giữ gìn tất cả hạnh nguyện, các ba la mật, các nhẫn, các địa, hồi hướngthọ kýtu tập các pháp trợ đạocúng dường chư Phật, nghe pháp thọ hành của Bồ tát, tất cả các tâm khác không sao giữ gìn nổi.

Như núi Tu di nếu ai ở gần thì đồng màu với núi. Cũng vậy, nếu ai ở gần Bồ đề tâm của đại Bồ tát thì đồng màu với Nhất thiết trí của Bồ đề tâm ấy…”

Bồ đề tâm làm tăng trưởng và giữ gìn tất cả Phật pháp, tất cả trí huệ và công đức tích tập của Bồ tát. Hơn nữa Bồ đề tâm làm ai ở gần nó thì được chiếu sáng đồng màu với nó. Bồ đề tâm là ánh sáng của trí huệ và sự tỏa chiếu của đại bi, do đó những ai ở gần nó sẽ được chiếu sáng đồng màu với nó.

Như đem một ngọn đèn vào trong nhà tối, thì bóng tối trăm ngàn năm đều được phá trừ. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát đem vào trong tâm của chúng sanh thì có thể phá trừ hết những phiền não nghiệp chướng trong trăm ngàn vạn ức kiếp không thể nói hết.

 Như ngọc báu ma ni thanh tịnh, vì mắt lòa thì thấy là bất tịnh. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát vốn thanh tịnh, kẻ vô trí chẳng tin mà cho là bất tịnh.

Như ngọc lưu ly trong trăm ngàn năm ở chỗ dơ bẩn mà chẳng nhiễm dính dơ bẩn, vì tánh nó xưa nay thanh tịnh. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát ở cõi dục trăm ngàn kiếp mà không bị lỗi họa của cõi dục làm ô nhiễm, vì tánh nó vốn thanh tịnh như pháp giới vậy.”

Bồ đề tâm tánh vốn thanh tịnh, không gì làm dơ bẩn được. Hơn nữa tánh Bồ đề tâm vốn thanh tịnh như pháp giới xưa nay thanh tịnh. Thế nên để chứng ngộ pháp giới xưa nay thanh tịnhBồ tát cần chứng ngộ tánh Bồ đề tâm vốn thanh tịnh nơi tâm mình.

Như có nước thuốc tên Ha trạch ca, nếu dùng một lạng nước thuốc này thì biến được ngàn lạng đồng đều thành vàng thật, chẳng phải ngàn lạng đồng biến ra được thuốc này. Cũng vậy, đại Bồ tát dùng thuốc trí hồi hướng của Bồ đề tâm biến tất cả nghiệp, mê lầm đều thành tướng Nhất thiết trí, chẳng phải nghiệp mê lầm mà biến thành được tâm này.

Như lửa nhỏ tùy khi đốt chỗ nào thì ngọn lửa càng mạnh. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát tùy chỗ nào duyên đến thì lửa trí càng mạnh.

Như trong biển có ngọc báu tên Hải tạng, hiện khắp những sự trang nghiêm trong biển. Cũng vậy Bồ đề tâm của đại Bồ tát hiện khắp những sự trang nghiêm của Nhất thiết trí.

Như huyễn thuật, không có hình sắc mà hiện hình sắc. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát tuy không có sắc, không thể thấy được, nhưng lại ở khắp mười phương pháp giới thị hiện đủ thứ công đức trang nghiêm.”

Bồ đề tâm có chức năng là chuyển hóa. Như thuốc Ha trạch ca chuyển hóa đồng thành vàng, như ngọn lửa chuyển hóa tất cả những thứ gì nó chạm đến thành trí huệnhư huyễn thuật, chuyển hóa thế giới bình thường thành pháp giới đủ thứ công đức trang nghiêm.

Nói theo những Kinh, Luận khác, Bồ đề tâm “chuyển thức thành trí, chuyển sanh tử thành Niết bàn”.

 

Như đã nói ở trên, trong phần tiếp theo này Đức Di Lặc giảng về Bồ đề tâm cho đồng tử Thiện Tài, tuy ít thí dụ hơn (103 thí dụ so với phần trước 118 thí dụ) nhưng câu dài hơn, nghĩa là sâu và rộng hơn. Sâu hơn và rộng hơn nghĩa là Bồ đề tâm tương đối gần như nhập thành một với Bồ đề tâm tuyệt đối.

Bồ đề tâm tuyệt đối là Pháp giới, là Phật Tỳ Lô Giá Na, là Pháp thân của tất cả chư Phật. Thế nên sau khi giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâmĐức Di Lặc cho Thiện Tài vào lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng của ngài. Lầu gác ấy phản ánh toàn bộ pháp giớitoàn bộ không gian và thời gian, nói cách khác, lầu gác ấy chính là Pháp giới.

Bồ đề tâm tuyệt đối là tánh Khôngpháp thân của tất cả chư Phật:

Như có ngọc báu tên Vua tự tại ở trong châu Diêm phù đề cách mặt trời mặt trăng bốn vạn do tuần mà bao nhiêu cảnh vật trang nghiêm của nhật nguyệt đều hiện ảnh đầy đủ. Cũng vậy, công đức thanh tịnh của đại Bồ tát phát Bồ đề tâm ở trong sanh tử chiếu pháp giới Không, tất cả công đức của Phật trínhật nguyệt đều hiện trong đó.

Như có cây tên Vô căn, không có rễ mà cành lá hoa quả trọn đều sum suê. Cũng vậy, cây Bồ đề tâm của đại Bồ tát vốn không có căn, vô sở đắc mà có thể trưởng dưỡng cây lá hoa quả Nhất thiết trí tríthần thôngđại nguyện che mát khắp thế gian.

Như nhà huyễn thuật muốn làm huyễn sự, trước phải khởi ý ghi nhớ huyễn pháp sau đó biến hiện mới thành tựu. Cũng vậy, đại Bồ tát muốn khởi tất cả huyễn sự thần thông của chư Phật và Bồ tát, trước phải phát tâm Bồ đề sau đó tất cả mới được thành tựu.”

Ở đoạn trước có nói, “Bồ đề tâm tánh vốn xưa nay thanh tịnh như pháp giới,” tánh thanh tịnh của Bồ đề tâm và pháp giới chính là tánh Không. Ở đây, nói Bồ đề tâm là tánh Không một cách trực tiếp, “Bồ đề tâm ở trong sanh tử chiếu pháp giới Không”, “Bồ đề tâm là cây Vô cănvô sở đắc”. Và khi nói, “huyễn thuật, huyễn sự, huyễn pháp”, thì huyễn là một đặc tính của tánh Không; huyễn là sự biến hiện của tánh Không.

 

Bồ đề tâm là quang minh, ánh sáng. Đoạn Kinh này nói nhiều lần Bồ đề tâm là ánh sáng: “Như có ngọc ma ni tên Đại quang minh… “, “Như ngọc Tịnh quang minh…”, “Như ánh sáng mặt trời mặt trăng…”, “Đèn Bồ đề tâm của đại Bồ tát đại nguyện là tim đèn, sáng chiếu pháp giới, thêm dầu đại bigiáo hóa chúng sanhtrang nghiêm cõi nước, thi hành Phật sự, không hề ngưng nghỉ.”…

Như một ngọn đèn thắp cho trăm ngàn đèn khác, ngọn đèn gốc này không giảm không hết. Cũng vậy, đèn Bồ đề tâm của đại Bồ tát sanh thành đèn trí của ba đời chư Phật mà đèn tâm này vẫn không giảm không hết.

 

Bồ đề tâm là sức mạnhnăng lực không gì thắng nổi, thế nên được ví như “kim cương”, “sư tử”, “chày kim cương”, “đức vua đại thế lực”, “đại dương không thể hoại”…

Bồ đề tâm có năng lực của trí huệ và đại bi:

Như mèo chồn vừa nhìn thấy chuột, chuột liền rút vô hang chẳng dám ra. Cũng vậy, đại Bồ tát phát Bồ đề tâm tạm dùng huệ nhãn quán các nghiệp, các mê lầm thì mê lầm, nghiệp liền lẫn trốn chẳng còn sanh ra nữa.”

“Như có người uống cam lồ, tất cả vật độc không làm hại được. Cũng vậy đại Bồ tát uống Bồ đề tâm thì chẳng sa vào địa Nhị thừa, do đó đủ lực bi nguyện rộng lớn.

Nhờ năng lực của trí huệ và đại bi hợp nhất mà Bồ tát có thể “làm huyễn sự, muốn khởi tất cả huyễn sự thần thông của chưa Phật, chư Bồ tát, trước phải khởi phát Bồ đề tâm thì sau tất cả mới được thành tựu.” Như thế sức mạnh để làm huyễn sự, tất cả huyễn sự thần thông là sức mạnh của Bồ đề tâm, của trí huệ và đại bi hợp nhất.

 

Đức Di Lặc kết luận đoạn giảng về Bồ đề tâm này như sau:

Thiện nam tử! Bồ đề tâm này thành tựu vô lượng vô biên cho đến không thể nói không thể nói hết công đức thù thắng. Nếu có chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề thì được công đức thù thắng như vậy.

Vì thế, thiện nam tử, ngươi đã được lợi lành lớn, vì ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, cầu Bồ tát hạnh, là đã được công đức lớn như vậy.

Này thiện nam tử! Như ngươi hỏi Bồ tát làm sao học Bồ tát hạnh, tu Bồ tát đạo? Ngươi hãy vào trong tòa đại lâu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng này, quán sát khắp nơi thì có thể biết rõ sự học Bồ tát hạnh, học rồi thì thành tựu vô lượng công đức.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1619)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1740)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1305)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 997)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1304)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1791)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1356)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1458)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1287)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2586)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1279)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1305)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1586)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1565)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1529)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1364)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2511)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1512)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1499)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1282)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1332)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1497)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1452)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1334)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1304)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1415)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2067)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1443)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1409)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1505)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1747)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1427)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1290)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1566)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1601)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2208)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1374)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1850)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1576)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1665)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1518)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1856)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1566)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1354)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1630)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1485)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1449)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1242)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1166)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1208)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1433)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1545)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1516)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 957)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1405)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1416)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1554)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1798)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1404)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant