Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bồ Đề Tâm Thành Tựu Vô Lượng Vô Biên Công Đức

11 Tháng Ba 202216:17(Xem: 1795)
Bồ Đề Tâm Thành Tựu Vô Lượng Vô Biên Công Đức

Bồ Đề Tâm Thành Tựu Vô Lượng Vô Biên Công Đức

Nguyễn Thế Đăng

bo de tam

 

Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm:

“Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnhBa đời chư Phật từ Bồ đề tâm mà xuất sanh. Vì thế nên nếu có ai phát tâm Vô thượng Bồ đề tức là đã xuất sanh vô lượng công đức, có thể nhiếp giữ khắp đạo Nhất thiết trí.

Thiện nam tử! Ví như có người được thuốc vô úy thì lìa năm sợ hãi: lửa không thiêu được, độc không hại được, dao không đứt được, nước không trôi được, khói không xông được. Cũng vậy, đại Bồ tát được thuốc Bồ đề tâm Nhất thiết trí thì lửa tham không thiêu, độc sân không hại, dao mê lầm không đứt, dòng sanh tử không cuốn trôi, khói tìm tòisuy nghĩ không xông được.

Ví như có người được thuốc giải thoát, thì vĩnh viễn không hoạn nạn. Cũng vậy, đại Bồ tát được thuốc trí giải thoát Bồ đề tâm thì lìa hẳn sanh tử hoạn nạn.

Ví như có người cầm giữ thuốc Vô thắng, tất cả oán địch không ai thắng nổi. Cũng vậy, đại Bồ tát cầm giữ thuốc vô thắng Bồ đề tâm thì hàng phục được tất cả ma quân.

Ví như có người cầm giữ thuốc Thiện kiến, trừ được tất cả bệnh tật mình có. Cũng vậy, đại Bồ tát cầm giữ thuốc thiện kiến Bồ đề tâm, trừ hết tất cả các bệnh phiền não…

(Phẩm Nhập pháp giớiKinh Hoa Nghiêm)

Trước hết, chúng ta thấy ở phần này, Bồ đề tâm cũng được ví như thuốc, hương, hoa, cây cối, đèn, kim cương… nhưng câu nói dài hơn, như vậy Bồ đề tâm được giảng rộng hơn và sâu hơn.

Bồ đề tâm trừ tất cả phiền não, các hoạn nạn, các quân ma… có trong tất cả các cõi sanh tửBồ đề tâm là thuốc cho tất cả chúng sanh, chữa lành tất cả các bệnh trong sanh tử.

Trong đoạn này, có hai lần nói đến Nhất thiết tríđạo Nhất thiết trí và Bồ đề tâm Nhất thiết tríBồ đề tâm gắn với Nhất thiết trí, mà Nhất thiết trí là Bồ đề tâm tuyệt đối. Như thế trong phần này, ngay từ đầu Bồ đề tâm tương đối do vị Bồ tát phát nguyện và thực hành đã được gắn liền với Bồ đề tâm tuyệt đối hay Nhất thiết trí của các bậc Giác ngộ.

Như hương hắc chiên đàn trên trời, nếu đốt một chỉ, mùi hương xông khắp tiểu thiên thế giớigiá trị của tất cả trân bảo trong tam thiên thế giới đều không bằng. Cũng vậy, hương Bồ đề tâm của đại Bồ tát trong một niệm công đức xông khắp pháp giới, tất cả công đức Thanh VănĐộc Giác đều không bằng được.

Như nơi hải đảo mọc cây Gia tử, rễ, thân, cành, lá, hoa, quả, tất cả chúng sanh thường lấy thọ dụng không lúc nào hết. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát, từ lúc phát khởi tâm bi nguyện cho đến thành Phậtchánh pháp trụ thế luôn thường lợi ích cho tất cả thế gian không hề cách ngưng.

Như tim đèn, tùy theo lớn nhỏ mà phát ánh sáng, nếu thêm dầu thì ánh sáng không bao giờ dứt. Cũng vậy, đèn Bồ đề tâm của đại Bồ tát đại nguyện làm tim ánh sáng chiếu pháp giới, thêm dầu đại bigiáo hóa chúng sanhtrang nghiêm cõi nước, thi hành Phật sự không thôi dứt…”

Bồ đề tâm là đèn ánh sáng trí huệ chiếu pháp giớiđại nguyện làm tim đèn, cháy mãi bằng dầu đại bi, để làm Phật sự là “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh.” Cả ba thí dụ đều nói trí huệ, nguyện và tâm bi của Bồ tát không thôi dứt, không cách ngưng, tỏa khắp pháp giới làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh. Như thế tầm ảnh hưởng và công việc của Bồ đề tâm là khắp cả pháp giới và Bồ đề tâm của Bồ tát là phương tiện trí, nguyện và bi để nhập pháp giới.

Như người giỏi phương pháp thu phục rồng, ở giữa loài rồng mà vẫn tự tại. Cũng vậy đại Bồ tát được pháp Bồ đề tâm khéo điều phục rồng, ở trong tất cả phiền não rồng vẫn được tự tại.

Như có tráng sĩ cầm mâu nhọn đâm thủng giáp cứng xuyên qua không ngại. Cũng vậy, đại Bồ tát dùng Bồ đề tâm bén nhọn đâm thủng những tà kiếnphiền nãoxuyên qua không ngại.

Như đại lực sĩ Ma ha na già, nếu nổi oai nộ thì trên trán nổi bướu lở, nếu bướu lở chưa khép thì tất cả người trong Diêm phù đề không ai chế phục được. Cũng vậy, đại Bồ tát nếu khởi đại bi thì ắt phát Bồ đề tâm, tâm ấy chưa xả thì tất cả thế gian, ma và dân ma không làm hại được…”

Bồ đề tâm như phương pháp thu phục rồng phiền não, đây là trí huệ phương tiện, có trí huệ phương tiện thì sống trong sanh tử phiền não mà có thể hóa giải và làm lợi lạc cho việc tu hành tự giácgiác thaBồ đề tâm cũng là đại bi mà tất cả thế gian, ma và dân ma không làm gì được. Bồ đề tâm là sự hợp nhất của trí huệ và đại bisức mạnh vô địch chiến thắng sự xấu ác và mê mờ của các cõi sanh tử.

Như có cây thuốc tên Vô sanh căn, do lực của cây này làm tăng trưởng tất cả cây ở Diêm phù đề. Cũng vậy do lực của cây Bồ đề tâm của đại Bồ tát làm cho tất cả các thiện pháp của hàng hữu họcvô học và các Bồ tát đều được tăng trưởng.

Như trên tòa kim cương trong Đại thiên thế giới có thể giữ được các Phật ngồi đạo trànghàng phục các ma, thành Vô thượng Chánh giác, tất cả các tòa khác không thể kham giữ được. Cũng vậy, Bồ đề tâm có thể giữ gìn tất cả hạnh nguyện, các ba la mật, các nhẫn, các địa, hồi hướngthọ kýtu tập các pháp trợ đạocúng dường chư Phật, nghe pháp thọ hành của Bồ tát, tất cả các tâm khác không sao giữ gìn nổi.

Như núi Tu di nếu ai ở gần thì đồng màu với núi. Cũng vậy, nếu ai ở gần Bồ đề tâm của đại Bồ tát thì đồng màu với Nhất thiết trí của Bồ đề tâm ấy…”

Bồ đề tâm làm tăng trưởng và giữ gìn tất cả Phật pháp, tất cả trí huệ và công đức tích tập của Bồ tát. Hơn nữa Bồ đề tâm làm ai ở gần nó thì được chiếu sáng đồng màu với nó. Bồ đề tâm là ánh sáng của trí huệ và sự tỏa chiếu của đại bi, do đó những ai ở gần nó sẽ được chiếu sáng đồng màu với nó.

Như đem một ngọn đèn vào trong nhà tối, thì bóng tối trăm ngàn năm đều được phá trừ. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát đem vào trong tâm của chúng sanh thì có thể phá trừ hết những phiền não nghiệp chướng trong trăm ngàn vạn ức kiếp không thể nói hết.

 Như ngọc báu ma ni thanh tịnh, vì mắt lòa thì thấy là bất tịnh. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát vốn thanh tịnh, kẻ vô trí chẳng tin mà cho là bất tịnh.

Như ngọc lưu ly trong trăm ngàn năm ở chỗ dơ bẩn mà chẳng nhiễm dính dơ bẩn, vì tánh nó xưa nay thanh tịnh. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát ở cõi dục trăm ngàn kiếp mà không bị lỗi họa của cõi dục làm ô nhiễm, vì tánh nó vốn thanh tịnh như pháp giới vậy.”

Bồ đề tâm tánh vốn thanh tịnh, không gì làm dơ bẩn được. Hơn nữa tánh Bồ đề tâm vốn thanh tịnh như pháp giới xưa nay thanh tịnh. Thế nên để chứng ngộ pháp giới xưa nay thanh tịnhBồ tát cần chứng ngộ tánh Bồ đề tâm vốn thanh tịnh nơi tâm mình.

Như có nước thuốc tên Ha trạch ca, nếu dùng một lạng nước thuốc này thì biến được ngàn lạng đồng đều thành vàng thật, chẳng phải ngàn lạng đồng biến ra được thuốc này. Cũng vậy, đại Bồ tát dùng thuốc trí hồi hướng của Bồ đề tâm biến tất cả nghiệp, mê lầm đều thành tướng Nhất thiết trí, chẳng phải nghiệp mê lầm mà biến thành được tâm này.

Như lửa nhỏ tùy khi đốt chỗ nào thì ngọn lửa càng mạnh. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát tùy chỗ nào duyên đến thì lửa trí càng mạnh.

Như trong biển có ngọc báu tên Hải tạng, hiện khắp những sự trang nghiêm trong biển. Cũng vậy Bồ đề tâm của đại Bồ tát hiện khắp những sự trang nghiêm của Nhất thiết trí.

Như huyễn thuật, không có hình sắc mà hiện hình sắc. Cũng vậy, Bồ đề tâm của đại Bồ tát tuy không có sắc, không thể thấy được, nhưng lại ở khắp mười phương pháp giới thị hiện đủ thứ công đức trang nghiêm.”

Bồ đề tâm có chức năng là chuyển hóa. Như thuốc Ha trạch ca chuyển hóa đồng thành vàng, như ngọn lửa chuyển hóa tất cả những thứ gì nó chạm đến thành trí huệnhư huyễn thuật, chuyển hóa thế giới bình thường thành pháp giới đủ thứ công đức trang nghiêm.

Nói theo những Kinh, Luận khác, Bồ đề tâm “chuyển thức thành trí, chuyển sanh tử thành Niết bàn”.

 

Như đã nói ở trên, trong phần tiếp theo này Đức Di Lặc giảng về Bồ đề tâm cho đồng tử Thiện Tài, tuy ít thí dụ hơn (103 thí dụ so với phần trước 118 thí dụ) nhưng câu dài hơn, nghĩa là sâu và rộng hơn. Sâu hơn và rộng hơn nghĩa là Bồ đề tâm tương đối gần như nhập thành một với Bồ đề tâm tuyệt đối.

Bồ đề tâm tuyệt đối là Pháp giới, là Phật Tỳ Lô Giá Na, là Pháp thân của tất cả chư Phật. Thế nên sau khi giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâmĐức Di Lặc cho Thiện Tài vào lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng của ngài. Lầu gác ấy phản ánh toàn bộ pháp giớitoàn bộ không gian và thời gian, nói cách khác, lầu gác ấy chính là Pháp giới.

Bồ đề tâm tuyệt đối là tánh Khôngpháp thân của tất cả chư Phật:

Như có ngọc báu tên Vua tự tại ở trong châu Diêm phù đề cách mặt trời mặt trăng bốn vạn do tuần mà bao nhiêu cảnh vật trang nghiêm của nhật nguyệt đều hiện ảnh đầy đủ. Cũng vậy, công đức thanh tịnh của đại Bồ tát phát Bồ đề tâm ở trong sanh tử chiếu pháp giới Không, tất cả công đức của Phật trínhật nguyệt đều hiện trong đó.

Như có cây tên Vô căn, không có rễ mà cành lá hoa quả trọn đều sum suê. Cũng vậy, cây Bồ đề tâm của đại Bồ tát vốn không có căn, vô sở đắc mà có thể trưởng dưỡng cây lá hoa quả Nhất thiết trí tríthần thôngđại nguyện che mát khắp thế gian.

Như nhà huyễn thuật muốn làm huyễn sự, trước phải khởi ý ghi nhớ huyễn pháp sau đó biến hiện mới thành tựu. Cũng vậy, đại Bồ tát muốn khởi tất cả huyễn sự thần thông của chư Phật và Bồ tát, trước phải phát tâm Bồ đề sau đó tất cả mới được thành tựu.”

Ở đoạn trước có nói, “Bồ đề tâm tánh vốn xưa nay thanh tịnh như pháp giới,” tánh thanh tịnh của Bồ đề tâm và pháp giới chính là tánh Không. Ở đây, nói Bồ đề tâm là tánh Không một cách trực tiếp, “Bồ đề tâm ở trong sanh tử chiếu pháp giới Không”, “Bồ đề tâm là cây Vô cănvô sở đắc”. Và khi nói, “huyễn thuật, huyễn sự, huyễn pháp”, thì huyễn là một đặc tính của tánh Không; huyễn là sự biến hiện của tánh Không.

 

Bồ đề tâm là quang minh, ánh sáng. Đoạn Kinh này nói nhiều lần Bồ đề tâm là ánh sáng: “Như có ngọc ma ni tên Đại quang minh… “, “Như ngọc Tịnh quang minh…”, “Như ánh sáng mặt trời mặt trăng…”, “Đèn Bồ đề tâm của đại Bồ tát đại nguyện là tim đèn, sáng chiếu pháp giới, thêm dầu đại bigiáo hóa chúng sanhtrang nghiêm cõi nước, thi hành Phật sự, không hề ngưng nghỉ.”…

Như một ngọn đèn thắp cho trăm ngàn đèn khác, ngọn đèn gốc này không giảm không hết. Cũng vậy, đèn Bồ đề tâm của đại Bồ tát sanh thành đèn trí của ba đời chư Phật mà đèn tâm này vẫn không giảm không hết.

 

Bồ đề tâm là sức mạnhnăng lực không gì thắng nổi, thế nên được ví như “kim cương”, “sư tử”, “chày kim cương”, “đức vua đại thế lực”, “đại dương không thể hoại”…

Bồ đề tâm có năng lực của trí huệ và đại bi:

Như mèo chồn vừa nhìn thấy chuột, chuột liền rút vô hang chẳng dám ra. Cũng vậy, đại Bồ tát phát Bồ đề tâm tạm dùng huệ nhãn quán các nghiệp, các mê lầm thì mê lầm, nghiệp liền lẫn trốn chẳng còn sanh ra nữa.”

“Như có người uống cam lồ, tất cả vật độc không làm hại được. Cũng vậy đại Bồ tát uống Bồ đề tâm thì chẳng sa vào địa Nhị thừa, do đó đủ lực bi nguyện rộng lớn.

Nhờ năng lực của trí huệ và đại bi hợp nhất mà Bồ tát có thể “làm huyễn sự, muốn khởi tất cả huyễn sự thần thông của chưa Phật, chư Bồ tát, trước phải khởi phát Bồ đề tâm thì sau tất cả mới được thành tựu.” Như thế sức mạnh để làm huyễn sự, tất cả huyễn sự thần thông là sức mạnh của Bồ đề tâm, của trí huệ và đại bi hợp nhất.

 

Đức Di Lặc kết luận đoạn giảng về Bồ đề tâm này như sau:

Thiện nam tử! Bồ đề tâm này thành tựu vô lượng vô biên cho đến không thể nói không thể nói hết công đức thù thắng. Nếu có chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề thì được công đức thù thắng như vậy.

Vì thế, thiện nam tử, ngươi đã được lợi lành lớn, vì ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, cầu Bồ tát hạnh, là đã được công đức lớn như vậy.

Này thiện nam tử! Như ngươi hỏi Bồ tát làm sao học Bồ tát hạnh, tu Bồ tát đạo? Ngươi hãy vào trong tòa đại lâu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng này, quán sát khắp nơi thì có thể biết rõ sự học Bồ tát hạnh, học rồi thì thành tựu vô lượng công đức.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1654)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1624)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1031)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1509)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1479)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1669)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1933)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1520)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1352)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1371)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1543)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1142)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1264)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1272)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1695)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1640)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2995)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1824)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1363)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1220)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1278)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1406)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1321)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1918)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1681)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1890)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1818)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2389)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1784)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2124)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2190)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2298)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1851)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1973)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2031)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1955)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2594)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1946)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1885)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1943)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1890)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2165)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2298)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1966)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2074)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1880)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1903)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2406)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2319)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3989)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2480)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3189)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2470)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2044)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 3304)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2343)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3023)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2700)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 2023)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant