Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tứ Diệu Đế

10 Tháng Tư 202208:06(Xem: 3157)
Tứ Diệu Đế
TỨ DIỆU ĐẾ

Kyabje Choden Rinpoche
Tenzin sao chép và dịch Tạng ngữ sang Anh ngữ
Lozang Ngodrub hiệu đính bản Anh ngữ và chuyển Việt ngữ
Võ Thư Ngân & Chân Thông Tri hiệu đính

 
Tứ Diệu Đế

Hành giả phải phát khởi các giai đoạn động lực và hành vi vì lợi lạc của tất cả các bà mẹ hữu tìnhbao la như không gian, tôi phải thành tựu quả vị giác ngộ viên mãn vô song, và vì mục tiêu này mà tôi nên lắng nghe giáo pháp cao quý.

Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộĐức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi. Bài pháp Tứ Diệu Đế này là khuôn khổ của Phật pháp.

Tứ Diệu Đế là bài pháp đầu tiên của Đức Phật, và con có thể tìm thấy giáo huấn này trong nhiều kinh điển, cũng như nhiều sách vở. Tứ Diệu Đế là một trong những tóm tắt quan trọng nhất của Phật pháp, và cũng là điểm trọng yếu cho việc tu tập cá nhânVì vậy nên hành giả phải thấu hiểu Tứ Diệu Đế.

Tứ Diệu Đế gồm có hai cặp, trong đó, hai chân đế đầu được gọi là chân phiền não, hay khía cạnh vọng tưởng, và hai chân đế cuối cùng được gọi là chân tịnh hóa viên mãn. Cặp đầu tiên của hai chân đế là mặt vọng tưởng, thứ vọng tưởng mà khi vừa phát sinh trong tâm ai là sẽ tạo ra nhiễu loạn trong tâm người đó. Chúng là nhân và quả. Ví dụ như, nếu như con tạo ra nhân, thì phải trải nghiệm quả liên quan với cái nhân ấy.

Rồi cặp kế tiếp của hai chân đế được gọi là chân tịnh hóa viên mãn, nghĩa là nếu có thể an định vọng tưởng tạo ra nhiễu loạn trong thân tâm thì con có thể hoàn toàn giải thoát khỏi sự phiền nhiễu ấy, và nhân của nó. Vậy thì có hai cặp nhân quả trong Tứ Diệu Đế.

Cặp đầu tiên là chân vọng tưởng, và cái mà chúng ta gọi là tập đế, là nguồn gốc khổ đau của mình. Đây là một cặp. Cặp tiếp theo là tịnh hóa hoàn toànđạo đế là nhân và diệt đế là quả.

Cặp đầu tiên gồm có quả là khổ và nhân tạo khổ là tập đếDiệt đế là quả và đạo đế là nhân. Đây là Tứ Diệu Đế. Tại sao nó được gọi là chân đế cao quý, hay Thánh đế? Bởi vì là phàm nhânchúng ta không thể thấy sự thật này, và kết quả là phải trôi lăn từ cõi này sang cõi khác trong luân hồi. Đối với thánh nhân thì các ngài có thể thấy sự thật này, nên nó được gọi là chân đế cao quý, hay thánh đế (arya satya).

Trong Tứ Diệu Đế thì hai chân đế đầu, khổ đế và tập đế, phải được từ bỏ, và hai chân đế tiếp theodiệt đế và đạo đế, phải được viên thành. Tất cả các giáo pháp của nhà Phật đều liên quan đến Tứ Diệu Đế, bởi vì chúng dạy cách đoạn trừ nỗi khổ và nhân tạo khổ, cách đạt được diệt khổ và đường tu. Vì vậy nên giáo pháp Tứ Diệu Đế mới quan trọng.

Phàm nhân không thể thấy được sự thật này, không những vậy mà còn có ý niệm mê lầmvì vậy nên họ trôi lăn trong luân hồi. Con biết rằng có bốn khái niệm lầm lạc liên quan đến khổ đế: 1) xem những gì bất tịnh là tịnh; 2) bất hạnh là hạnh phúc; 3) vô thường là thường còn; 4) vô ngã là ngã. Vì vọng niệm mà họ tạo nghiệp xấu ác và trôi lăn trong luân hồi.

Trong Uttaratantra, Đức Phật Di Lặc đã giảng giải Tứ Diệu Đế bằng sự minh họa về một bệnh nhân. Ngài nói, “Bệnh tình phải được thấu hiểu, nguyên nhân phải được đoạn trừ, thuốc men phải được sử dụng, và việc điều trị phải được hoàn thànhTương tự như vậy, đối với khổ, nguồn gốc tạo khổ, diệt khổ và đường tu, người ta phải thấu hiểu, từ bỏthành tựu và nương tựa, theo đúng thứ tự.”.

Nếu có một bệnh nhân đau đớn trầm trọng, thì người bệnh phải cảm thấy ghê tởm, hay chán ghét cơn đau. Nếu không thì người bệnh sẽ không cố gắng khắc phục nỗi đau. Cũng giống như vậy, trước hết, cần phải thấu hiểu khuyết điểm của nỗi khổ mà chúng ta đang chịu đựng, rồi mình sẽ ước mong có được hạnh phúc không vướng khổ. Để thấu hiểu khả năng thoát khỏi bệnh tật, thì người ta nên nương tựa vào thuốc men. Đây là một minh họa, và theo ý nghĩa thật sự thì người ta phải hiểu khuyết điểm của khổ đế, rồi sẽ muốn khắc phục nỗi khổ. Ở thời điểm này, con chỉ mới phát tâm mong ước khắc phục nỗi khổ, nhưng vẫn chưa biết mình có khả năng thoát khổ hay không. Vì vậy, người ta phải khảo sát nhân tạo khổ. Người ta phải khảo sát xem có khả năng hoàn toàn thoát khỏi cái nhân ấy hay không. Sau khi khảo sát kỹ càng thì người ta sẽ thấy rằng nghiệp và phiền não là những nguyên nhân tạo khổ. Trong hai nguyên nhân, nghiệp và phiền não, thì nguyên nhân chính là phiền não, vì nghiệp là do phiền não tạo ra.

Dù có nhiều loại phiền não, nhưng chúng đều bắt nguồn từ phiền não căn bản chấp ngãPhiền não chấp ngã này là một trong tam độc, tham, sân, si. Tâm chấp ngã này là vô minh căn bản. Một khi nhận ra nguyên nhân tạo khổ là vô minh căn bản chấp ngã, thì ta có thể khảo sát sâu hơn, để xem có thể đoạn trừ phiền não này hay không. Một khi khảo sát bản tánh của vô minh, con sẽ thấy rằng vô minh căn bản chấp ngã này là một tâm thức méo mó, lầm lạc, bởi vì bám chấp vào tự ngã có nghĩa là con hiểu rằng tự ngã và vạn pháp được thiết lập từ phía của chúng, nhưng trên thực tế thì không có pháp nào được thiết lập từ chính phía chúng, mà không phụ thuộc vào sự định danh bằng tâm thức của chúng ta. Vì sự hiểu biết về chấp ngã thấy tự ngã như một thực thể độc lập là tâm thức méo mó hay sai lầm, nên có một lực đối kháng mạnh mẽ, có thể loại trừ nó. Các pháp không được thiết lập từ chính phía chúng một cách độc lập. Chúng được thiết lập dựa vào tâm quy gán, và dựa vào các thành phần của chúng. Tâm chứng ngộ vạn pháp không có sự hiện hữu độc lập được gọi là tâm chứng ngộ vô ngã, và đó là tâm thức không lầm lạc.

Có hai loại tâm thứctâm thức chứng ngộ vô ngã và tâm thức bám chấp vạn pháp tồn tại từ chính phía chúng. Một cái là tâm thức đúng đắn, và một cái là tâm thức sai lầm. Một cái là sai lầm, vì sự vật không hiện hữu như cách chúng được nhận thứcNhận thức đúng đắn có thể trở nên rõ ràng hơn, khi con khảo sát sự vật một cách sâu xa hơn nữa. Ở mặt khác, tâm thức sai lầm hay nhận thức mê lầm sẽ sụp đổ, không thể đứng vững, khi con khảo sát sự vật một cách kỹ càng.

Trước tiên, hãy nhớ lại Tứ Diệu Đế là gì. Khi Đức Phật giảng dạy các chân đế cao quý này cho năm vị đệ tử, ngài đã nói, “Này chư Tỳ kheo, đây là khổ đế. Này chư Tỳ kheo, đây là tập đế. Này chư Tỳ kheo, đây là diệt đế, và này chư Tỳ kheo, đây là đạo đế.”. Vì dòng tâm thức của các vị đệ tử này đã sắp chín muồi, nhờ những dấu ấn qua nhiều đời kiếp, nên khi Đức Phật nói như vậy, thì nhờ oai lực của Đức Phật và các dấu ấn trong căn cơ nhạy bén của họ, mà một vị đệ tử đã thành tựu Kiến đạo, và bốn vị kia thành tựu Tư Lương đạo và Gia Hành đạo v.v…

Bây giờ là thời mạt pháp, nên chỉ nghe một hay hai lời nói thì mình không thể chứng ngộ, nhưng nó có thể lưu lại những dấu ấn trong dòng tâm thức của mình. Đó là lý do vì sao chúng ta phải thọ nhận rất nhiều luận giải.

Các ví dụ về khổ đế là môi trường bên ngoài của cõi luân hồi và chúng sanh cư ngụ bên trong, chẳng hạn như tam giới (dục giớisắc giới và vô sắc giới), và lục đạo v.v… Dù sinh ra ở nơi nào trong các cõi giới này thì con vẫn bị phiền não và khổ đau khống chế, và không có tự do. Đây là tất cả sự thật về khổ.

Tuy nhiên, có nhiều thứ trong cõi luân hồi mà ta cho là hạnh phúc và khao khát chúng. Như đã nói ở trên, theo nhận thức của thánh giả thì tất cả những thứ đáng ao ước trong cõi luân hồi này chỉ là ảo tưởng, và trong nhận thức của các ngài, không có gì để khao khát cả, nhưng vì vọng niệm, nên chúng ta khát khao những lạc thú và hạnh phúc nào đó trong sự hiện hữu luân hồi này. Tất cả những điều này đều vô thường và lệ thuộc vào sự thay đổi. Trong giáo pháp Lamrim, chúng ta thiền quán về bản chất của vô thường, khuyết điểm của luân hồi nói chung, đặc biệt là khuyết điểm của từng cõi giới một, và hiệu quả của việc thiền quán về những điểm này là để hiểu được khổ đế. Chúng phải thấu hiểu những điểm bất lợi của khổ.

Bất kỳ lúc nào tu tập Pháp, chúng ta phải tu tập với tâm nguyện để được giải thoát khỏi ba cõi luân hồi. Nếu con tu tập Pháp để có được đời sống tốt đẹp và hạnh phúc cho kiếp sau, hay một tái sinh với diện mạo lôi cuốn trong kiếp sau, thì việc tu hành của con không trở thành nhân giải thoát. Nó không thể trở thành việc tu tập Pháp để giải thoát khỏi luân hồi, và con sẽ phải tái sinh lần nữa trong cõi luân hồi này, mà không thể tự chủ

Người ta nói nếu con thấu hiểu và cảm nhận được cảm giác khi mình bị kẹt trong một ngôi nhà đang cháy ra sao, thì không cần biết con có bao nhiêu lạc thú và hạnh phúc thế gian, khi thấy rằng những điều này đều mang bản chất giả dối và luôn thay đổi, thì con sẽ thiết lập nền tảng giải thoát và tâm toàn tríChúng ta phải cố thành tựu loại tâm thức ấy. Ví dụ, khi gặp khó khăn nào đó trong đời, thì con phải xem chúng là khuyết điểm trong luân hồi, và nghĩ rằng ngày nào chúng ta còn tồn tại trong luân hồi, thì đó là điều sẽ xảy ra, và đó là bản chất của luân hồi. Khi gặp điều gì may mắn, thì phải có khả năng thấy nó giả dối, bởi vì nó không bền lâu, và sẽ đổi thay. Khi tư duy về những điều nói trên, người ta phải phát tâm đạt được tâm an lạc và hạnh phúc lâu dài, đó là giải thoát và tâm toàn tríChúng ta phải luyện tâm theo cách này.

Sáu cõi là địa ngục, quỷ đói, súc sinhba cõi này được gọi là ba cõi thấp. Cõi người, cõi thiên và A tu la được gọi là ba cõi cao. Khi tính luân hồi trong tam giới thì đó là dục giớisắc giới và vô sắc giớiTrước tiên, trong dục giớichúng sanh sống trong cõi giới này chủ yếu khát khao lạc thú giác quan. Trong sắc giới thì chúng sanh không ham muốn lạc thú giác quan, mà hưởng thụ lạc thú tinh thần, nhờ nhập địnhChư thiên trong vô sắc giới thì không có sắc thân thô trọng. Không có cõi luân hồi nào khác mà không thuộc về tam giới này, và dù sinh ra ở đâu trong tam giới, thì chúng ta nhất định phải chịu khổ.

Nhân tạo khổ là phiền não và nghiệp. Có ba loại nghiệp, phước nghiệpphi phước nghiệp và bất động nghiệp. Nghiệp tiêu cực đẩy chúng ta vào ba cõi thấp, được gọi là phi phước nghiệp, nghiệp đưa ta tái sinh vào các cõi cao được gọi là phước nghiệp, và nghiệp đưa ta tái sinh trong các cõi cao, với định tâm nhất điểm thì gọi là bất động nghiệp. Nghiệp của chúng ta trong dục giới không phải là bất động nghiệp, vì nó có thể được thay đổi, do yếu tố thứ ba của ái và thủ (hai chi trong thập nhị nhân duyên). Ví dụ, một người có nghiệp tái sinh trong cõi chư thiên dục giới, và trước khi chết, họ nhìn thấy một con voi, và vì tâm thức này mà nghiệp của họ đổi thành nghiệp tái sinh thành một con voi. Tuy nhiên, nghiệp để tái sinh trong cõi cao thì không thể thay đổi, đó là lý do nó là bất động nghiệpTập đế có hai yếu tốphiền não và nghiệp, và hơn nữa, nghiệp thì có ba loại.

Đối với chúng ta thì vì nghiệp và phiền não mà mình đang sống trong luân hồi, và vì tập đế mà ta đã thiết lập các uẩn khổ não này, và đang trải nghiệm nỗi khổ trong hiện tại. Còn về khổ thì tuy Thầy đã giải thích ngày hôm qua, có nỗi khổ vì khổ (khổ khổ), như khi ta bị đau đớn trầm trọng, đó gọi là khổ vì khổ. Đó là nỗi khổ hiển nhiên.

Loại khổ kế tiếp được gọi là khổ vì thay đổi (hoại khổ), và tất cả hạnh phúc thế gian là nỗi khổ vì thay đổi, vì bản chất thay đổi của chúng. Đó là lý do mà hạnh phúc trong cõi luân hồi của chúng ta được gọi là hạnh phúc ô nhiễmLý do là nếu như hạnh phúc của mình là hạnh phúc chân thật và cứu cánh, thì càng tận hưởng hạnh phúc thế gian nhiều hơn, thì nó phải càng gia tăng thêm nữa, nhưng không phải như vậy, vì nó lại thay đổi. Ví dụ, nếu con ngồi ngoài nắng thì sẽ thấy nóng, và muốn vô phòng có máy lạnh. Trong khoảnh khắc đầu tiên, con sẽ cảm thấy thoải mái, nhưng nếu ở trong phòng có máy lạnh một thời gian, con sẽ bắt đầu thấy lạnh. Nó được gọi là khổ vì thay đổi, vì bản chất thay đổi của nó.

Rồi đến nỗi khổ thâm nhập khắp nơi, bao trùm từ tột đỉnh luân hồi cho tới tầng địa ngục thấp nhất. Đó là lý do nó được gọi là nỗi khổ thâm nhập khắp nơi (hành khổ). Có thể hành khổ không có vẻ là nỗi khổ hiển nhiên, như sự đau đớn của chúng ta, nhưng chính sự hiện hữu của mình đã được quy định để chịu khổ bất cứ lúc nào, khi gặp đúng duyên. Đó là lý do nó được gọi là nỗi khổ thâm nhập khắp nơi. Hiện nay, ta đang chịu sự khống chế của ba loại khổ này. Nên thấy những khuyết điểm của khổ, và phát tâm mong muốn khắc phục những nỗi khổ ấy. Nếu có ai hỏi con rằng có khả năng để khắc phục những nỗi khổ này hay không, thì câu trả lời là có. Có khả năng để khắc phục khổ đau, bởi vì ta có thể ngưng tạo tác nhân tạo khổ, và có thể thành tựu diệt khổ. Sự chứng ngộ tánh Không rõ rệt trong dòng tâm thức của một thánh nhân là ví dụ của sự tịch diệt. Có ba loại tịch diệt liên quan đến các thừa khác nhau, tịch diệt của Thanh văntịch diệt của Duyên giác, và tịch diệt của Đại thừaTịch diệt của Đại thừa là tịch diệt trong dòng tâm thức của một vị Phật. Tịch diệt của Thanh văn và Duyên giác chỉ là đoạn trừ phiền não. Không có nghĩa là người thành tựu được loại tịch diệt này sẽ đạt giác ngộLý do là người đó vẫn phải đoạn trừ ám chướng đối với tâm toàn trí.

Đạo đế thì không có phân loại, vì trí tuệ chứng ngộ tánh Không là con đường duy nhấtTuy nhiên, vì khả năng và thiên hướng khác nhau của con người, nên đạo lộ này sẽ dẫn đến các thừa khác nhau. Nếu hành giả thiền quán về tánh Không chỉ để tự giải thoát, thì họ sẽ thành tựu sự tịch diệt của hai thừa đầu tiên. Nếu hành giả thiền quán về đạo lộ tánh Không vì lợi lạc của tất cả chúng sanh, thì người ấy sẽ thành tựu sự tịch diệt của Đại thừa.

Có bốn thuộc tính trong mỗi chân đế, tạo ra 16 thuộc tính của Tứ Diệu Đế. Khi thiền quán về đạo đế, thì có cái gọi là thiền quán về khía cạnh của đạo đế. Đây là điểm rất quan trọng, tuy nhiên, Thầy không thể giải thích tất cả các thuộc tính ở đây, nhưng ví dụ như chân đế đầu tiên, tức khổ đế, có bốn thuộc tính, đó là vô thường, khổ, Không và vô ngã. Đối với bậc thánh giả thì các ngài có thể thấy bất cứ niềm hạnh phúc nào trong cõi luân hồi là vô thườngvì vậy nên chúng không đáng tin cậy, và thay đổi trong từng sát na. Các ngài thấy hạnh phúc trong luân hồi của chúng ta là điều không đáng ưa thích. Vì hạnh phúc trong cõi luân hồi là sản phẩm của nghiệp và phiền não, nên chúng mang bản chất khổ, giống như nếu hạt giống có độc thì quả của hạt giống đó cũng phải có độc. Chúng ta nghĩ rằng có một bản ngã kiểm soát tất cả các uẩn ô nhiễm miên viễn của mình. Ta nói, “Uẩn của tôi.”. Chúng ta đang bám chấp vào sự tồn tại của bản ngã ấy, nhưng trên thực tế thì không có một bản ngã như vậy. Bậc thánh nhân không thể thấy bất kỳ bản ngã nào tồn tại từ chính phía nó, đó là lý do mà một thuộc tính được gọi là Không. Nếu ai hỏi con có một bản ngã hiện hữu một cách tự nhiên hay không, thì nó cũng không tồn tại, và đó là lý do nó được gọi là vô ngã. Bậc thánh nhân có thể thấy mọi pháp ô nhiễm là vô thường, mang bản chất khổ, Không và vô ngãTuy nhiên, vì phàm nhân không thể thấy được điều này, nên họ xem hạnh phúc trong cõi luân hồi là thường còn, và vì lý do này mà họ tạo tác nhiều nghiệp xấu ác để đạt được hạnh phúc ấy. Hơn nữa, chúng ta không thể thấy các uẩn của mình thuộc về bản chất khổ, và khi đạt được một chút hạnh phúc thế gian nào, thì mình xem nó như hạnh phúc cứu cánhPhàm nhân thấy các uẩn là trong sạch, nhưng trên thực tế thì chúng nhơ bẩn. Sắc uẩn của chúng ta được tạo thành từ hàng triệu chất nhơ bẩn, và chính hạt giống của nó là những chất nhơ bẩn của cha mẹ mình, và hạt giống của cha mẹ mình bắt nguồn từ những chất nhơ bẩn từ cha mẹ của họ. Nếu đi ngược lại và xem xét, đếm thử có bao nhiêu chất trong sạch ở trong đó, thì con sẽ không tìm ra bất cứ chất liệu nào trong sạch trong uẩn của mình. Thân thể của chúng ta do 36 chất nhơ bẩn tạo thành, nhưng ta không nhận chân ra điều này, mà cứ cho rằng nó rất sạch sẽ. Vì cứ chấp thân mình là trong sạch, nên ta bám chấp vào thân thể của mình và người khác. Nếu có một vết bẩn trên quần áo, thì ta sẽ tẩy sạch nó, nhưng toàn bộ thân mình có tính chất nhơ bẩn, thì ta lại không nhận ra điều này, mà chấp nó là sạch sẽ, và vì tâm thiên vị với sắc uẩn này, mà mình tạo ra nhiều nghiệp xấu ác. Chúng ta có vọng niệm rằng các uẩn nhơ bẩn của mình là trong sạch, khổ đau là hạnh phúcvô ngã là ngã, và vô thường là thường hằng. Phải nhận ra những vọng niệm này, bởi vì mình đã bị chúng lừa gạt từ vô thỉ đến nay. Nếu như không chấm dứt những vọng niệm này, thì con không thể thoát khỏi luân hồi.

Thánh nhân có thể thấy những sự thật này như thị, còn phàm nhân thì không thể thấy, và chấp chặt vào vọng niệm. Vì lý do này mà họ trôi lăn trong luân hồiVì vậy, người ta phải hiểu vọng niệm là vọng niệm, và ngưng cách hành xử bắt nguồn từ vọng niệm ấy, đó là cách duy nhất để đạt được giải thoát.

Thầy sẽ kể cho các con nghe một ví dụ về cách phàm nhân không thể thấy chân lý mà thánh nhân có thể thấy. Một lần kia, Đức Phật đi ngang một vùng nọ, và thấy một chiếc bình đựng báu vật. Đức Phật nói rằng, “Đây là một con rắn nguy hiểm, mà nọc độc của nó có thể thấm rất nhanh.”. Một người trong làng nghe thấy điều này và nghĩ rằng, “Mình đã nghe về rắn nguy hiểm, nhưng chưa từng nghe nọc độc của nó thấm rất nhanh, nên phải đi xem coi nó ra sao.”. Khi người này nhìn thấy món vật, thì đó không phải là một con rắn, mà là chiếc bình chứa đầy bảo vật. Ông ta cười và nói rằng, “Con rắn nguy hiểm của Đức Phật là chiếc bình chứa bảo vật.”. Thế là ông đem nó về nhà, và trở nên giàu có. Trong thời xưa, theo truyền thống của vùng đất ấy thì bất cứ bảo vật quý hiếm nào được người ta tìm thấy sẽ thuộc về nhà vua. Không lâu sau đó, nhà vua nghe tin về người dân trong làng này, nên triệu ông đến tòa án xét xử. Ông bị kết tội vi phạm luật pháp, nên bị kết án tử hình. Ngay trước khi bị xử tử, ông chợt nhớ lời Đức Phật đã nói, “Đây là một con rắn nguy hiểm mà nọc độc của nó sẽ thấm rất nhanh.”. Ông liền lập lại những lời này, và người có trách nhiệm xử tử ông lấy làm lạ, nên tâu lại với nhà vua. Nhà vua ra lệnh cho người đao phủ mang người dân làng ấy đến gặp vua, và hỏi tại sao ông lại nói như vậy. Người dân làng giải thích toàn bộ câu chuyện, và nhà vua đã trở thành tín đồ của Đức Phật, còn người dân làng cũng được thả ra. Sự việc là như thế, khi các bậc thánh nhân nhìn vào lạc thú thế gian.

Bất cứ điều gì Đức Phật dạy phải được hiểu trên căn bản của khuôn khổ Tứ Diệu Đế, phải thực hành điều gì và phải từ bỏ điều gì, chủ yếu là phải từ bỏ tập đế tạo ra khổ, đó là vô minhNếu có thể đoạn trừ vô minh, thì khổ đau sẽ chấm dứtTuy nhiên, một hành giả sơ cơ không thể thực hiện điều này, mà phải dần dà làm quen với nó. Vì vậy, điều cần thiết là nghĩ về nỗi khổ của các cõi thấp, và khi đã phát tâm ghê sợ những cõi thấp, thì hành giả sẽ phát nguyện từ bỏ nhân tạo ra tái sinh trong các cõi thấp, đó là thập ác, để tránh việc tái sinh trong cõi thấp. Điều này giống như từ bỏ tập đế là kết quả của việc nhìn thấy khuyết điểm của khổ đế. Giống như việc phát nguyện để viên thành đường tu, nhờ thấy được lợi điểm của chân diệt, tuy hành giả có thể không có khả năng dấn thân trên đường tu trực tiếp chứng ngộ tánh Không, nhưng có thể tích lũy công đức để thấy được chân lý một cách trực tiếp, đó là Tư Lương đạo và Gia Hành đạo, để trực tiếp chứng ngộ chân lý. Sau đó, hành giả sẽ thành tựu Kiến đạo, và con sẽ trực tiếp nhận ra chân lý ở đạo lộ này, rồi hành giả phải tiến tu trên Thiền đạo và Vô Học đạo. Nếu muốn tích lũy công đức, thì phải quy y, tịnh hóa nghiệp và thực hành hạnh bố thí. Đây là tất cả các nhân để thành tựu đạo đế. Chân diệt là mục tiêu, và nếu muốn thành tựu chân diệt, thì hành giả phải thực hành đường tu. Vì vậy nên Tứ Diệu Đế rất quan trọng.

Vì bốn vọng niệm liên quan đến khổ đế, mà chúng ta đang trôi lăn trong luân hồiVì vậy, nên cố gắng thấy các pháp như cách bậc thánh nhân thấy, và giúp cho tâm mình quen thuộc, để có thể thấy chân lý như chư vị có thể thấy. Thiền là phương tiện để giúp cho tâm mình quen thuộc, và hãy cầu nguyện, để con có thể thực hiện điều này.

Cầu nguyện hồi hướng.

Nguyên tác: Four Noble Truths by His Eminence Choden Rinpoche

Nguồn Pháp âm:

https://ia601006.us.archive.org/23/items/AVS-Oct-2013/11.%20KCR%20Four%20Noble%20Truths%20AVS%2010.22.2013.MP3      

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4366)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4656)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4701)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5854)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3294)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5258)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2923)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4132)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5281)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4262)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3318)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6358)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5329)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4620)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6232)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6104)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3888)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6032)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4639)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4785)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3384)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6273)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4941)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3540)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3471)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5666)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4235)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5979)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5235)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3669)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3753)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3704)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3529)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5361)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4009)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4358)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5818)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3121)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3064)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3855)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4850)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3569)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3037)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4569)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4718)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3431)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3986)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4723)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3563)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3602)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5131)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4154)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3288)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2994)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3034)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3104)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3100)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3471)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 3998)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5172)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant