Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bàn Về Khái Niệm Con Đường Độc Nhất – Ekāyana Magga Trong Kinh Điển Pāli

19 Tháng Tư 202215:17(Xem: 2341)
Bàn Về Khái Niệm Con Đường Độc Nhất – Ekāyana Magga Trong Kinh Điển Pāli

Bàn Về Khái Niệm Con Đường Độc Nhất
– Ekāyana Magga Trong Kinh Điển Pāli


Chúc Phú

tam linh 

Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây[1] cho đến phương Đông[2].

Ở Việt Namcụ thể là trong bản dịch tiếng Việt kinh tạng Nikāya của hòa thượng Thích Minh Châu thì khái niệm con đường độc nhất xuất hiện trong hai trường hợp. Thứ nhất, trong những bài kinh liên quan đến pháp tu Tứ niệm xứ (cattāro satipaṭṭhānā). Thứ hai, ở những bài kinh nhằm chỉ cho Bát thánh đạo (ariya aṭṭhaṅgika magga).

Trong khi đó, lời dạy của Đức Phật vốn là thống nhất, dù ở bất cứ truyền thống Phật giáo nào. Cụ thể, theo kinh Trung Bộ, lời dạy của Đức Phật ban đầu cũng thiện, giữa cũng thiện và sau cuối cũng thiện[3]. Hoặc văn vẻ hơn như câu kinh Tập (Sn 171): Sự thật chỉ có một, không sự thật thứ hai[4]. Nói theo kinh điển Hán tạng là Phật nói một lời không hề sai khác (佛一言無有異)[5]. Sự tồn tại cả hai con đường độc nhất trong cùng một truyền thống kinh điển là điều quá đỗi đặc thù.

Từ những trường hợp chứng đắc Thánh quả được ghi nhận trong kinh điển Phật giáo như: do quán bất tịnh, do trực ngộ thường, do tu thân hành niệm, do thực hành về niệm chết…đã cho thấy rằng, có nhiều con đường cùng xuôi về Niết-bàn[6]. Những lời dạy tương tự của Đức Phật trong kinh điển Hán tạng cũng được tìm thấy từ bài kinh Tam tụ (三聚經)[7].

Do vậy, việc khảo lại những bản kinh xuất hiện cụm từ con đường độc nhất, từ kinh tạng Nikāya và những khi cần thiết chúng tôi sẽ đối chiếu sang Hán tạng, cũng như ý kiến của các bậc chú giải kinh điển, và cả những liên hệ về từ nguyên… nhằm góp phần minh định sự chân xác trong lời dạy của Đức Phật, là chủ đích của bài khảo luận này.

1.   Khái niệm con đường độc nhất liên quan đến Tứ niệm xứ - từ Hán tạng đến Nikāya .

1.1 Kinh điển Nikāya

Kinh Trường Bộ

Trong kinh Trường Bộ, khái niệm con đường độc nhất xuất hiện trong kinh Đại niệm xứ (mahāsatipaṭṭhānā sutta). Kinh ghi:

Tôi nghe như vậy.

Một thời, Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu lâu), tại Kammāssadhamma (Kiềm-ma-sắt-đàm) - đô thị của xứ Kuru. Rồi Thế Tôn gọi các vị Tỷ kheo: "Này các Tỷ kheo." Các Tỷ kheo trả lời Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn." Thế Tôn nói như sau:

- Này các Tỷ kheođây là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu bidiệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh lý, chứng ngộ Niết bàn. Đó là Bốn niệm xứ[8].

Kinh Trung Bộ

Kinh Niệm xứ (satipaṭṭhānā sutta), thứ 10. Kinh ghi:

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu-lâu), Kammassadhamma (Kiềm-ma-sắt-đàm) là đô thị của xứ Kuru. Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

- Này các Tỷ-kheo.

Các Tỷ-kheo vâng đáp Thế Tôn:

- Bạch Thế Tôn.

Thế Tôn thuyết như sau:

-- Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu nãodiệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh tríchứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn niệm xứ[9].

Kinh Tương Ưng.

Có nhiều bài kinh trong chương ba, thuộc Tương Ưng niệm xứ ghi nhận về con đường độc nhất. Như kinh (S.v,141), (S.v,167), (S.v,185). Ở đây, kinh (S.v,141) ghi:

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Vesāli, tại rừng Ambapāli.

Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". "Bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế TônThế Tôn nói như sau:

 - Có con đường độc nhất này, này các Tỷ-kheo, khiến cho các loài hữu tình được thanh tịnhvượt qua được sầu bichấm dứt khổ ưu, chứng đạt chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn. Tức là bốn niệm xứ[10].

Như vậy đã có nhiều bài kinh trong kinh tạng Nikāya ở bản dịch Tiếng Việt chuyên chở cụm từ con đường độc nhất. Qua khảo sát ban đầu, cụm từ này nhằm chỉ cho pháp hành Tứ niệm xứ vả cả Bát thánh đạoĐể lý giải tại sao cụm từ này xuất hiện trong kinh tạng Nikāya, nên chăng thử đối khảo các bài kinh tương đương thuộc kinh văn Hán tạng.

1.2 Những bản kinh tương đương trong Hán tạng.

Thứ nhất, do vì bản kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường Bộ không có kinh tương đương trong Hán tạng nên chúng tôi đối chiếu bản kinh Niệm xứ số 10 trong Trung Bộ với kinh Niệm xứ số 98 thuộc Trung A-hàm.

Kinh Niệm xứ số 98 ghi:

Tôi nghe như vầy.

Một thời Đức Phật du hóa tại Câu-lâu-sấu, ở Kiếm-ma-sắt-đàm, một đô ấp của Câu-lâu.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có một con đường[11] tịnh hóa chúng sanhvượt qua lo sợ, diệt trừ khổ nãochấm dứt kêu khóc, chứng đắc Chánh pháp. Đó là Bốn niệm xứ[12].

Như vậy, sự khác biệt giữa hai bản dịch kể trên là:

Đây là con đường độc nhất/ Có một con đường (有一道).

Thứ haitương tự như trên, bản kinh Tương Ưng (S.v,167) và bản tương đương trong Hán tạng cũng ghi nhận cách chuyển dịch khác biệt. Để độc giả tiện hình dungchúng tôi xin được đối chiếu nguyên văn hai bản kinh này.

Kinh Phạm Thiên (S.v,167), ghi:

Một thời Thế Tôn trú ở Uruvelā, trên bờ sông Neranjarā, tại cây bàng ajapāla, sau khi mới giác ngộ.

Trong khi Thế Tôn độc cư Thiền tịnhtâm niệm tư tưởng như sau được khởi lên: "Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho các chúng sanhvượt qua sầu bichấm dứt khổ đau, chứng đạt chánh lý (nāya), chứng ngộ Niết-bàn. Tức là bốn niệm xứ[13].

Kinh Tạp-A-hàm, quyển 44, số 1189, ghi:

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ở dưới gốc cây bồ-đề, bên sông Ni-liên-thiền, tại tụ lạc Uất-bề-la, thành đạo chưa bao lâu.

Bấy giờ, Thế Tônmột mình yên tĩnh tư duy như vầy:

“Có nhất thừa đạo (有一乘道) có thể làm cho chúng sanh thanh tịnh, thoát mọi ưu bidiệt trừ khổ não và được pháp chân như. Đó là bốn Niệm xứ. (HT. Thích Đức thắng, dịch)

Như vậy, sự khác biệt giữa hai bản dịch là:

Đây là con đường độc nhất/ Có nhất thừa đạo (有一乘道)

Từ những trường hợp đối khảo nêu trên cho thấy, chỉ riêng cụm từ con đường độc nhất trong kinh tạng Nikāya qua bản dịch tiếng Việt, đã cho thấy những phương cách chuyển dịch khác biệt so với bản kinh tương đương ở Hán tạng, và ngay cả nguyên tác từ Hán tạng cho đến Nikāya.

 Vậy thực ra, khái niệm con đường độc nhất được chuyển ngữ từ cơ sở nào? Và các nhà chú giải kinh điển đã có những lý giải ra sao về cụm từ đó? Vấn đề này sẽ được làm rõ ở phần tiếp theo.

2.   Vấn đề từ nguyên và quan điểm của các nhà chú giải về thuật ngữ con đường độc nhất.

Trong kinh tạng Nikāya Tiếng Việt, cụm từ con đường độc nhất được chuyển dịch từ nguyên tác ekāyana magga. Điều kỳ thú là cả Pāli hay Sanskrit đều trùng nhau ở thuật ngữ này. Magga là con đường, kinh văn Hán tạng thường dịch là đạo (道). Vấn đề còn lại là chữ ekāyana.

Về phương diện lịch sửthuật ngữ ekāyana xuất hiện rất sớm trong cổ thư Bṛhadāraṇyaka Upaniṣhad (II.4.11)[14]. Trong cổ thư này, thuật ngữ ekāyana được hiểu là hội tụnền tảng, nhờ đó, dựa vào đây…Đoạn văn sau sẽ cho thấy điều đó.

sa yathā sarvāsām apām samudra ekāyanam, evaṁ sarveṣāṁ sparśānām tvag ekāyanam, evaṁ sarveṣām sarveṣāṁ gandhānāṁ nāsike ekāyanam, evaṁ sarveṣāṁ rasānāṁ jihvā ekāyanam, evaṁ sarveṣāṁ rῡpāṇāṁ cakṣur ekāyanam, evaṁ sarveṣām sarveṣāṁ śabdānāṁ śrotram ekāyanam, evaṁ sarveṣāṁ saṁkalpānāṁ mana ekāyanam, evaṁ sarvāṣāṁ vidyānāṁ hṛdayam ekāyanam, evaṁ sarvāṣāṁ karmaṇāṁ hastāv ekāyanam, evaṁ sarvāṣāṁ ānandānām upastha ekāyanam, evaṁ sarveṣām sarveṣāṁ visargāṇām pāyur ekāyanam, evaṁ sarveṣāṁ adhvanām pādav ekāyanam, evaṁ sarveṣāṁ vedānāṁ vāg ekāyanam[15].

Dịch nghĩa:

Cũng như đại dương là nơi hội tụ của bao dòng nước. Như làn da là nơi cảm thức mọi sự xúc chạm. Như cái lưỡi là chỗ nhận biết các mùi vị khác nhau. Như lỗ mũi có chức năng ngửi được các mùi hương. Như con mắt dùng để phân định các màu sắc. Như lỗ tai dùng để nghe mọi thứ âm thanh. Như tâm thức là nền tảng của tư duy, cảm thụ. Như con tim là cội nguồn của kiến thức và sáng tạo. Như đôi tay là chỗ dựa cho mọi năng lực tạo tác. Như cơ quan sinh dục là cội nguồn của những lạc thú. Như các giống loài được khởi sinh từ sự đùm bọc, chở che. Như mọi cuộc lữ hành đều dựa vào bước chân đầu tiên. Như lời nói là cơ sở của tất cả kinh điển Vệ-đà.

Với sự lặp lại tới 13 lần trong một đoạn văn, dường như thuật ngữ ekāyana đã được các nhà chú giải kinh điển quan tâm khi có những lý giải gần tương đồng với căn nguyên của thuật ngữ này.

Trước hết, theo ngài Bhadantācariya Buddhaghoṣa trong bản chú giải kinh Niệm xứ (Satipaṭṭhānasuttavaṇṇanā), thì thuật ngữ ekāyana có thể được hiểu theo năm nghĩa.

Thứ nhất, trực tiếp, không có ngã rẽ (ekāyano - na dvidhā).

Thứ hai, độc bộ, viễn ly (vūpakaṭṭhena).

Thứ ba, thuộc về đấng tối thắng (ekassāti seṭṭhassa).

Thứ tư, con đường độc nhất (ekamaggo).

Thứ năm, dẫn đến sự tốt đẹp (gacchati pavattatīti attho)[16].

Trong kinh tạng Nikāya, cả năm nghĩa của cụm từ ekāyana magga đều được sử dụng trong những ngữ cảnh khác nhau. Do giới hạn của đề tài, nên chúng tôi không chỉ ra từng trường hợp cụ thể.

Trên một phương diện khác, với các nhà dịch thuật và chú giải Hán tạng, thuật ngữ ekāyana magga thường được dịch theo năm xu hướng sau.

Thứ nhất, trong giai đoạn sơ kỳ, nhiều bản kinh Tạp-A-hàm đã được dịch nhưng không rõ người dịch. Trong số đó có bản kinh mang số 102 thuộc quyển năm với nội dung ghi nhận về Tứ niệm xứBản kinh này tương đương bản kinh tạp A-hàm số 1189, với dịch ngữ: duy hữu nhất đạo, năng tịnh chúng sanh (唯有一道,能淨眾生): chỉ có một con đường, có thể làm thanh tịnh chúng sanh.

Thứ haihữu nhất nhập đạotịnh chúng sanh hạnh (有一入道,淨眾生行): có con đường nhất tâm, làm sạch hoặc nghiệp của chúng sanh. Ngay ở những dòng đầu, bài kinh đã định nghĩa: thế nào gọi là nhất nhập? Do vì chuyên chúnhất tâm nên gọi là nhất nhập (云何名為一入?所謂專一心,是謂一入)[17]. Đây là tựa đề của phẩm thứ mười hai của kinh Tăng-nhất-a-hàm (增壹阿含經) và nội dung đề cập đến con đường Bát thánh đạo (賢聖八品道).

Thứ bahữu nhất đạo tịnh chúng sanh (有一道淨眾生): có một con đường làm thanh tịnh chúng sanh. Chữ Tịnh (淨) ở đây đóng vai trò là động từ, nghĩa là làm cho sạch. Dịch ngữ này do ngài Cù-đàm-tăng-già-đề-bà (瞿曇僧伽提婆) sử dụng trong bản kinh Niệm xứ (念處經), thuộc Trung-A-hàmtương ứng với bản kinh Tứ niệm xứ (satipaṭṭhānā sutta), thuộc Trung Bộ.

Thứ tưhữu nhất thừa đạo năng tịnh chúng sanh (有一乘道能淨眾生): có một con đường khiến chúng sanh có thể thanh tịnh. Theo từ điển Khang Hy ( 康熙字典)[18], chữ Thừa (乘) ở đây là động từ, còn mang nghĩa Trị (治), nghĩa là khiến cho, sửa sang. Dịch ngữ này do ngài Cầu-na-bạt-đà-la (求那跋陀羅: 394-468) sử dụng trong bản kinh Tạp-A-hàm, quyển bốn mươi bốn, kinh số 1189, chuyên chở nội dung Tứ niệm xứ như bản kinh Phạm Thiên (S.v,167) thuộc kinh Tương Ưng Bộ.

Thứ nămnhất thú đạo (一趣道): một con đường cao đẹp. Dịch ngữ này được hai ngài Trúc-phật-niệm (竺佛念)[19] và ngài Huyền Tráng (玄奘: 602-664) sử dụng trong nhiều tác phẩm kinh điển quan trọng. Đặc biệt, trong luận A-tỳ-đạt-ma Đại-tỳ-bà-sa (阿毘達磨大毘婆沙論)[20] , ngài Huyền Tráng đã dịch lại phần đầu kinh Tứ niệm xứ. Không những vậy, tác phẩm luận tạng nổi tiếng này còn lý giải 12 nghĩa của cụm từ Nhất thú đạo.

 Luận ghi:

Như khế kinh nói: Có một con đường cao đẹp có thể làm cho chúng sanh thanh tịnh, gọi là Tứ niệm trụ (四念住).

Vì sao gọi đó là con đường cao đẹp?

  1. Vì siêu việt chúng sanh giới (一界)[21].
  2. Vì xuôi về niết bàn (一趣)[22].
  3. Vì giải thoát hữu lậu (一生)[23]
  4. Vì thông đạt giải thoát (一諦)[24]
  5. Vì hướng đến cứu cánh (究竟)
  6. Vì chỉ có một đường (但有一道)
  7. Vì không có nơi đi đến khác (無異趣)
  8. Vì không trở lại (不退還).
  9. Vì đạt giải thoát bất thoái (不退解脫)
  10. Vì ngược lại với năm đường ác (背五趣).
  11. Vì đối trị ngoại đạodị học (對治異道)
  12. Vì vượt thoát mọi tù hãmcung môn (解脫宮門)[25].

Như vậy, với thuật ngũ ekāyana magga, ngoại trừ một tác giả vô danh trong kinh Biệt dịch Tạp-A-hàm sử dụng dịch ngữ chỉ có con đường này (唯有一道) thì phần lớn các tác giả hữu danh như Cầu-na-bạt-đà-la, dịch giả của bộ Tạp-A-hàm; Cù-đàm-tăng-già-đề-bà, dịch giả của bộ Trung-A-hàm. Đặc biệt với hai ngài Trúc-phật-niệm, dịch giả của bộ Trường-A-hàm và ngài Huyền Tráng, tác giả nổi danh với hàng trăm tác phẩm mà trong đó có tác phẩm luận tạng A-tỳ-đạt-ma-Đại-tỳ-bà-sa (阿毘達磨大毘婆沙論), đã vận dụng nhiều nghĩa tích cực và thuận hợp theo từng ngữ cảnh, nhằm chuyển dịch thuật ngữ ekāyana magga. Nói chính xác, khi chuyển dịch thuật ngữ ekāyana magga sang Hán tạng, các nhà phiên dịch kinh điển Bắc truyền hữu danh nêu trên, đã không dùng từ nào mang nghĩa là con đường độc nhất.

Có thể nói, khái niệm con đường độc nhất không chỉ có mặt trong những bài kinh chuyên chở nội dung Tứ niệm xứ, mà chúng còn xuất hiện trong bài kinh nói về  Bát thánh đạo ở những bản dịch Tiếng Việt. Vấn đề này sẽ được làm rõ ở phần sau.

3.   Về bài kinh cho rằng Bát thánh đạo là con đường độc đạo.

Trong kinh tạng Nikāya, quan điểm Bát thánh đạo là con đường độc đạo xuất hiện ở bản dịch Tiếng Việt của hòa thượng Thích Minh Châu, trong bài kinh Māgandiya số 75 thuộc Trung Bộ. Trong bản kinh tương đương ở Hán tạng, kinh Tu-nhàn-đề (鬚閑提), số 153 thuộc Trung-A-hàmBản kinh này cũng được hòa thượng Tuệ Sỹ chuyển dịch mang nghĩa gần tương đương. Để dễ dàng khảo xét, chúng tôi xin được đối chiếu hai bản dịch kèm nguyên tác Pāli và cả Hán văn:

Kinh Māgandiya, số 75

Không bệnh, lợi tối thắng,
Niết-bàn, lạc tối thắng,
Bát chánh là độc đạo,
An ổn và bất tử.
(HT. Minh Châu, dịch)[26]

Kinh Man[27]-nhàn-đề, số 153

Không bệnh, lợi bậc nhất,
Niết-bàn, lạc tối thượng,
Chỉ con đường Bát chánh,
Đến an ổn cam lồ
(HT. Thích Tuệ Sỹ, dịch)[28]

Nguyên tác Pāli:

 Ārogyaparamā lābhā,
nibbānaṃ paramaṃ sukhaṃ;
Aṭṭhaṅgiko ca maggānaṃ,
khemaṃ amatagāmina’’nti[29].

Nguyên văn Hán tạng:

無病第一利
涅槃第一樂,
諸道八正道,
住安隱甘露[30]

Từ bảng đối chiếu trên đây, điều dễ dàng nhận thấy là trong nguyên tác Pāli không có một chữ nào mang nghĩa là độc đạo cả.

Đặc biệt, riêng với bản dịch của hòa thượng Tuệ Sỹ, ở cụm từ chư đạo bát chánh đạo (諸道八正道), được hòa thượng chuyển dịch: chỉ con đường Bát chánh. Theo chúng tôi, cách dịch này dễ tạo nên sự ngộ nhận.

Theo từ điển Khang Hy (康熙字典)[31] trong nghĩa thứ hai, chữ chư (諸) đóng vai trò đại từ bất định chỉ số đếm. Do đó, câu kinh chư đạo bát chánh đạo, trú an ẩn cam lồ (諸道八正道./ 住安隱甘露) cần được hiểu là: trong tất cả các con đườngbát chánh đạo là con đường đưa tới sự an ổnbất tử.

Như vậy từ nguyên bản Pāli và cả Hán tạng, câu kệ trong kinh Māgandiya và cả bản tương đương ở Hán tạng không hề mang nghĩa là độc đạo hoặc nghĩa gần như thế.

Để bổ sung cho quan điểm này, việc khảo sát thêm một trường hợp trong kinh Pháp Cú là cần thiết.

Trong kinh Pháp Cú, ở câu 273, hòa thượng Thích Minh Châu dịch là:

Tám ngành, đường thù thắng,
Bốn đế, lý thù thắng.
Ly tham, pháp thù thắng,
Giữa các loài hai chân,
Pháp nhãn, người thù thắng[32].

Nguyên tác Pāli:

Maggānaṭṭhaṅgiko seṭṭho,
Saccānaṃ caturo padā;
Virāgo seṭṭho dhammānaṃ,
Dvipadānañca cakkhumā[33].

Ở đây, khi dùng chữ thù thắnghòa thượng Thích Minh Châu đã dịch sát cụm từ seṭṭho. Câu tương tự trong kinh Pháp Cú ở tạng Bắc truyền cũng mang nghĩa tương đồng: Bánh chánh đạo là con đường tối thượng (八直最上道)[34].

Và như vậy, trong kinh Pháp Cú ở Hán tạng hay ở tạng Nikāya, Bát thánh đạo được xem là thù thắngtối thượng chứ không hề mang nghĩa là con đường độc đạo.

4.    Nhận định.

Có ba tâm thế khi Đức Phật thuyết pháp. Thứ nhất là nói với chính mình, kinh gọi là tự thuyết. Thứ hai là nói với chúng ngoại đạo và thứ ba là nói với chúng đệ tửTùy theo từng ngữ cảnh mà tâm thế thuyết pháp của Ngài có khác nhau.

Trong vấn đề xác lập và nhấn mạnh con đường do Ngài tự thân chứng ngộ, nhất là đối với ngoại đạo dị họcĐức Phật xác quyết chỉ có con đường này, chứ không thể có con đường nào khác. Ngoài giáo pháp của Đức Phật ra, cụ thể là các pháp hành mà trong đó có Tứ niệm xứBát chánh đạo… thì không thể tìm thấy các thánh quả Sa-môn[35]. Tính chất duy nhất, độc nhất được hiểu theo nghĩa này.

Trong năm nghĩa của thuật ngữ ekāyana magga do tôn giả Bhadantācariya Buddhaghoṣa chú giải, và mười hai nghĩa liên quan đến thuật ngữ này trong A-tỳ-đạt-ma-Đại-tỳ-bà-sa (阿毘達磨大毘婆沙論), chỉ nêu bày một nghĩa nhằm xác lập đây là con đường độc nhất. Đáng chú ý là, trong những bản dịch Hán tạng của những tác gia nổi tiếng như Cầu-na-bạt-đà-la, Cù-đàm-tăng-già-đề-bà, Trúc-phật-niệm và ngài Huyền Tráng, thuật ngữ ekāyana magga thường được phiên dịch như một lối đi dẫn đến nhiều kết quả tối thắng.

Cần phải thấy, Đức Phật đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, trong Pháp và Luật này có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đấy có những châu báu này, như Bốn niệm xứBốn chánh cầnBốn như ý túc, Năm căn, Năm lựcBảy giác chiThánh đạo tám ngành[36]. Ngài chưa từng tuyên bố loại châu báu này hơn loại châu báu kia, hoặc pháp hành này hơn pháp hành kia. Ở đây, việc chuyển dịch cụm từ ekāyana magga với ý nghĩa xác quyết rằng, Tứ niệm xứ hay Bát thánh đạo là con đường độc đạo, duy nhất là chưa sát nghĩa.



[1] Anālayo. Satipaṭṭhāna: The direct path to realization. Malaysia, Selangor: Buddhist wisdom centrer. 2006.

[2] Xem, 溫宗堃, 四念住如何是唯一之道 - 再探“ekāyana magga”之語意. 本文發表於《福嚴佛學研究》第六期1-22頁,2011年四月出版. Xem thêm bài viết của tác giả Bình Anson, Con đường duy nhất? Xem tại, https://thuvienhoasen.org/a28480/con-duong-duy-nhat-

[3] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch,  kinh Brahmayu, số 91; kinh Canki, số 95, NXB. Tôn giáo, 2012, tr,161 -203.

[4] Kinh Tập, kinh Những vấn đề nhỏ bé (Sn 171), câu 884. Xem tại, kinh Tiểu Bộ, tập 1, Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.511.

[5] 大正藏第 14 冊 No. 0461 佛說文殊師利現寶藏經, 卷下

[6] Jataka No. 248. Xem, Kinh Tiểu Bộ, tập 4, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.69.

[7] 大正藏第 01 冊 No. 0001 長阿含經, 卷第十, 三聚經

[8] Kinh Trường Bộ, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, tr. 445.

[9] Kinh Trung Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.85.

[10] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, tr. 556.

[11]Nhất đạo 一道; No.125(12.1): Nhất nhập đạo. Pāli ekayāno maggo, con đường độc đạo. (Chú thích của dịch giả Tuệ Sỹ)

[12] Tiểu tạng kinhTrung A-hàm, tập 2, Tuệ Sỹ dịch và chú, NXB. Phương Đông, 2009, tr. 1016.

[13] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, tr.579-580.

[14] Bṛhadāraṇyaka Upaniṣhad. Swami Krishnananda ed. Ashram. Rishikesh, India: The Divine Life Society Sivananda, 1983.

[15] Ibid.p. 212.

[16] Xem tại: http://www.tipitaka.org/romn/

[17]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第五, 壹入道品,一

[18] Xem tại, http://www.zdic.net

[19] Xem tại, 大正藏第 16 冊 No. 0656 菩薩瓔珞經, 卷第三

[20]大正藏第 27 冊 No. 1545 阿毘達磨大毘婆沙論, 卷第一百八十八

[21] 大正藏第 02 冊 No. 0120 央掘魔羅經, 卷第四,  一切眾生界是一界故

[22]大正藏第 42 冊 No. 1828 瑜伽論記, 第十九,  涅槃名第一趣也

[23]大正藏第 01 冊 No. 0001 長阿含經, 卷第九, 十上經. Nguyên văn: 云何一生法?謂有漏解脫

[24]大正藏第 12 冊 No. 0374 大般涅槃經, 卷第二十. Nguyên văn:  如來語一味,猶如大海水,是名第一諦.

[25]大正藏第 27 冊 No. 1545 阿毘達磨大毘婆沙論, 卷第一百八十八, 見蘊第八中念住納息第一之二

[26] Kinh Trung Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.622

[27] Các bản Hán đều in là Tu nhàn đề 鬚閑提. Nhầm tự dạng 鬚 và 鬘. Ở đây, phỏng theo phiên âm từ Phạn mà sửa lại. Pāli: M.75 Māgandiyasuttaṃ. (Chú thích của dịch giả Tuệ Sỹ)

[28] Tiểu tạng kinhTrung A-hàm, tập 3, Tuệ Sỹ dịch và chú, NXB. Phương Đông, 2009, tr.1601

[29] Xem tại: http://palikanon.com/pali/majjhima/maj075.htm

[30]大正藏第 01 冊 No. 0026 中阿含經, 卷第三十八, 鬚閑提經.

[31] Xem tại http://www.zdic.net

[32] Kinh Tiểu Bộ, tập 1, Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 80.

[33] Xem tại: http://www.palikanon.com/pali/khuddaka/dhp/dhp4.html

[34]大正藏第 04 冊 No. 0210 法句經, 卷下, 道行品.

[35] Kinh Trung Bộ, tập 1, Tiểu kinh sư tử hống, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.95. Xem thêm, Kinh Trường Bộ, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 335-336.

[36] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.329; Kinh Phật tự thuyết (Ud.51). Xem, Kinh Tiểu Bộ, tập 1, Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.168.
Chúc Phú
(Thư Viện Hoa Sen)

Bài đọc thêm:
-Vài Lời Ghi Chú Khi Dịch Kinh Chú Tâm Tỉnh Giác (kinh Niệm Xứ) (Dịch giả: Hoang Phong)
-Satipaṭṭhāna Con Đường Thẳng Tới Chứng Ngộ & Nghiên Cứu Đối Chiếu với các bộ A Hàm
-Con Đường Độc Nhất Đi Đến Niết Bàn (Như Không)

-Con đường duy nhất? (Bính Anson)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1619)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1740)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1305)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 997)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1304)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1791)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1356)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1458)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1286)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2586)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1279)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1305)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1586)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1565)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1529)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1364)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2511)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1512)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1499)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1282)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1332)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1497)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1452)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1334)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1304)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1415)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2067)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1443)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1409)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1505)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1747)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1427)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1290)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1566)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1601)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2208)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1374)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1850)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1576)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1665)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1518)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1856)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1566)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1354)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1630)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1485)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1449)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1242)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1166)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1208)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1433)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1544)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1516)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 957)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1405)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1416)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1554)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1798)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1404)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant