Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tìm Hiểu “kinh Căn Tu Tập”

10 Tháng Sáu 202214:36(Xem: 1981)
Tìm Hiểu “kinh Căn Tu Tập”

Tìm Hiểu “kinh Căn Tu Tập”
(Indriya bhàvanà sutta)

Thích Nữ
 Hằng Như

 
khoang trong

I. DẪN NHẬP

Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do cố Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ văn tạng Pali sang Việt văn.  Bài kinh này, Đức Phật dạy cách kiểm soát cảm thọ và tư tưởng khi giác quan tiếp xúc với trần cảnh bên ngoài. Với cách này, cho thấy đường lối tu tập Phật dạy hoàn toàn khác biệt với đường lối tu tập của Bà-la-môn Pasariya dạy cho đệ tử. Bà-la-môn Pasariya dạy đệ tử không nên để mắt thấy sắc, không nên để tai nghe âm thanh, không nên để mũi ngửi mùi hương v.v… Phương thức này mang tính cách trốn chạy, tránh né, không dám để giác quan có cơ hội tiếp xúc với đối tượng bên ngoài thân. Như thế, lúc nào hành giả cũng phải nhắm mắt, bịt taibịt mũi...  Điều này đối với người sống chắc chắn là không thể! Cho nên đối với Đức Phậtlối tu của Bà-la-môn không đúng, bởi ô nhiễm tham, sân, si… là do nơi tâm, chứ không phải do nơi các căn hay các pháp trần gây ra.

 

II. TÌM HIỂU “KINH CĂN TU TẬP”

(INDRIYA BHÀVANÀ SUTTA)

A. KINH VĂN :

“Như vầy tôi nghe,

Một thời Thế Tôn ở Kajangala, tại Mukheluvana. Rồi thanh niên Bà-la-môn Uttara, đệ tử của Pasariya đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với thanh niên Bà-là-môn Uttara, đệ tử của Parariya đang ngồi một bên:

- Này Uttara, Bà-la-môn Pasariya có thuyết về căn tu tập cho các đệ tử không?

- Thưa Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Pasariya có thuyết về căn tu tập cho các đệ tử.

- Nhưng này Uttara, Bà-la-môn Pasariya thuyết về căn tu tập cho các đệ tử như thế nào?

- Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, không nên thấy sắc với mắt, không nên nghe tiếng với tai. Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Pasariya thuyết căn tu tập cho các đệ tử.

- Nếu là như vậy, này Uttara, theo như lời nói của Bà-la-môn Pasariya, người mù sẽ là người có căn tu tập, người điếc sẽ là người có căn tu tập. Này Uttara, người mù không thấy sắc với mắt, người điếc không nghe tiếng với tai.

Khi được nói vậy, thanh niên Bà-la-môn Uttara đệ tử của Pasariya ngồi im lặnghổ thẹn, thụt vai, mặt cúi gầm xuống, trầm ngâm, không nói năng gì.” (hết trích)

B. TÌM HIỂU NỘI DUNG:

- Chữ “Căn” dịch từ tiếng Pali là “Indriya” chỉ cho các giác quan như : Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý. Gọi là Nhãn cănNhĩ cănTỷ cănThiệt cănThân CănÝ căn.

Đoạn kinh này kể lại sự kiện thanh niên Bà-la-môn Uttara đến đảnh lễ Đức Thế Tôn tại Kajangala, Mukheluvana. Trong dịp này, Đức Thế Tôn hỏi thăm thầy của thanh niên Bà-la-môn là Pasariya có giảng dạy pháp tu tập giác quan cho các đệ tử hay không? Nếu có thì phương thức tu tập như thế nào? Thanh niên Uttara cho biết là Đạo sư Pasariya có dạy pháp này, và cách tu tập của họ là không để mắt thấy sắc, không để tai nghe âm thanh.

Nghe thanh niên Uttara nói thế, Đức Thế Tôn có ý kiến rằng: Người mù không có mắt để thấy sắc, người điếc không nghe tiếng với tai. Ý nói, như vậy chẳng lẽ không cần tu tập, họ cũng đương nhiên thành tựu pháp tu này hay sao? Vì thực chất người mù không thấy sắc, người điếc không nghe được tiếng nói. Thanh niên Uttara nghe Đức Thế Tôn nói như thế, chỉ biết cúi mặt trầm ngâm không nói năng gì.

 

A. KINH VĂN (tiếp theo)

Rồi Thế Tôn, sau khi biết được Uttara, đệ tử của Pasariya im lặnghổ thẹn, thụt vai, mặt cúi gầm xuống, trầm ngâm, không nói năng gì, liền gọi Tôn giả Ananda và nói:

- Này Ananda, Bà-la-môn Pasariya thuyết cho các đệ tử căn tu tập một cách khác; nhưng trong giới luật các bậc Thánh, vô thượng căn tu tập khác như vậy.

- Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời! Bạch Thiện Thệ nay đã đến thời Thế Tôn thuyết vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh. Sau khi nghe Thế Tôn, các vị Tỷ-kheo sẽ thọ trì.

- Vậy này Ananda, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Ananda vâng đáp Thế TônThế Tôn nói như sau:

- Này Ananda, thế nào là vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh? Ở đây, này Ananda, vị Tỷ-kheo. Mắt thấy sắc, khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: “Khả ý này khởi lên nơi ta, bất khởi ý này khởi lên, khả ý bất khả ý này khởi lên. Cái này khởi lên, vì là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả”. Cho nên dẫu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý hay khả ý và bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Này Ananda, như một người có mắt, sau khi mở mắt, lại nhắm mắt lại, hay sau khi nhắm mắt, lại mở mắt ra, cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên, khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các sắc do mắt nhận thức.” (hết trích)

B. TÌM HIỂU Ý NGHĨA TỪ NGỮ VÀ NỘI DUNG:

Khả ý: Vừa ýdễ chịuhài lòng.

- Bất khả ý: Không vừa ý, không dễ chịu, không hài lòng.

An tịnh: Yên lặng, bình an, sự vắng mặt của trạng thái lăng xăng (vọng tưởng)

- Thù diệu: Tốt đẹpphi thườngvi diệuthù thắng.

- Tâm xả: Ở đây có nghĩa là tâm không dính mắc, trạng thái tâm quân bìnhthanh thản nhưng không phải thờ ơ lãnh đạm, được xem là tâm an tịnh thù thắng, thù diệu.

Đoạn kinh này, Tôn giả Ananda thỉnh cầu Đức Phật thuyết giảng về pháp tu tập các căn trong giới luật bậc Thánh. Và Đức Phật đã giảng như sau:

- Khi mắt thấy sắc với tâm hài lòng, hay không hài lòng, hoặc chưa xác định (trung tínhxuất hiện, thì hành giả hãy tuệ tri rằng: “Hài lòng, hay không hài lòng hoặc chưa xác định, đã xuất hiện trong tâm. Cái gì xuất hiện thì hành giả nên dứt trừ (đoạn diệt) cái đó, chỉ giữ lại xả (xả tồn tại). Đức Phật dạy việc làm này thực hiện với một tốc độ mau chóng, dễ dàng, giống như một người mở mắt rồi nhắm mắt, hay nhắm mắt lại rồi mở mắt ra, với tốc độ nhanh chóng dễ dàng”.  Đây là pháp vô thượng căn tu tập đối với các sắc, do mắt nhận thức.

 

A. KINH VĂN  (tiếp theo)

Lại nữa này Ananda, Tỷ-kheo tai nghe tiếng khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: “Khả ý này khởi lên nơi ta, bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả ý này khởi lên. Cái này khởi lên, vì là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả”. Cho nên dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý, hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Này Ananda, như một người lực sĩ có thể búng tay một cách dễ dàng; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên, khả ý, bất khả ý, hay khả ý bất khả ý, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy) và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các tiếng do tai nhận thức. (hết trích)

B. TÌM HIỂU NỘI DUNG :

Nhĩ căn tiếp xúc với âm thanhtức tai nghe âm thanh, tiếng nói, với sự hài lòng, hay không hài lòng, hoặc chưa xác định, hãy tuệ tri rằng: “Hài lòng, hay không hài lòng, hoặc chưa xác định, đã được xuất hiện. Cái gì xuất hiện trong tâm phải nên buông bỏ, dứt trừ, chỉ giữ lại Xả là trạng thái tâm an tịnhthù thắng mà thôi!”. Pháp tu tập này được Đức Phật ví như một lực sĩ dùng sức búng ngón tay với một tốc độ mau chóng dễ dàng. Đối với giới luật bậc Thánh, đây là pháp vô thượng căn tu tập đối với âm thanh, tiếng nói, do tai nhận thức,

 

A. KINH VĂN (tiếp theo)

Lại nữa này Ananda, Tỷ-kheo do mũi ngửi hương khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: “Khả ý này khởi lên nơi ta, bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả ý này khởi lên. Cái này khởi lên, vì là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả”. Cho nên dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý, hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Này Ananda, như những giọt nước mưa chảy trượt đi, không có đọng lại trên một lá sen hơi chúc xuống; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên, khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập với các hương do mũi nhận thức. (hết trích)

B. TÌM HIỂU NỘI DUNG:

- Khi mũi ngửi mùi hương. Tương tự như đoạn kinh trên, khi mũi ngửi mùi hương với sự ưa hay không ưa hoặc chưa xác định, đã xuất hiện trong tâm, hành giả phải ý thức ngay rằng: “Ưa, hay không ưa, hoặc chưa xác định đã xuất hiện. Cái gì xuất hiện khi giác quan tiếp xúc với đối tượng thì mau chóng dứt trừ, không nên dính mắc, chỉ còn Xả”.  Thực hiện việc làm này với tốc độ nhanh chóng, ví như những giọt nước mưa chảy trượt mau lẹ, không còn đọng lại trên những lá sen chúc xuống. Đây là pháp vô thượng  căn tu tập đối với các mùi hương, do mũi nhận thức.

 

A. KINH VĂN (tiếp theo)

Lại nữa này Ananda, Tỷ-kheo do lưỡi nếm vị khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: “Khả ý này khởi lên nơi ta, bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả ý này khởi lên. Cái này khởi lên, vì là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả”. Cho nên dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý, hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Này Ananda, như một người lực sĩ có thể nhổ ra một cách dễ dàng cục đờm đọng lại trên đầu lưỡi; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên, khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các vị  do lưỡi nhận thức. (hết trích)

B. TÌM HIỂU NỘI DUNG:

- Khi lưỡi nếm vị (ngọt, mặn, đắng, cay v.v…) với sự hài lòng hay không hài lòng hoặc chưa xác định đã được xuất hiện, hãy tuệ tri rằng: “Hài lòng, hay không, hoặc chưa xác định đã được xuất hiện trong tâm. Cái gì xuất hiện do điều kiện thì nó thuộc về pháp hữu vi có dạng thô, phải dứt trừ chỉ giữ lại Xả với một tốc độ nhanh chóng”. Ví như người lực sĩ phun ra cục đờm đọng lại trên đầu lưỡi dễ dàng, nhanh chóng. Đó là pháp vô thượng căn đối với các vị (ngọt, mặn, cay, đắng…), do lưỡi nhận thức.

 

A. KINH VĂN (tiếp theo)

Lại nữa này Ananda, Tỷ-kheo thân cảm xúc khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: “Khả ý này khởi lên nơi ta, bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả ý này khởi lên. Cái này khởi lên, vì là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả”. Cho nên dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý, hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Này Ananda, ví như một người có thể co duỗi cánh tay được co lại của mình, hay co lại cánh tay duỗi ra của mình; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên, khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các xúc do thân nhận thức. (hết trích)

B. TÌM HIỂU NỘI DUNG:

- Khi thân va chạm với sự hài lòng hay không hài lòng, hoặc chưa xác định đã xuất hiện, hãy tuệ tri rằng: “Hài lòng hay không, hoặc chưa xác định đã xuất hiện. Cái gì xuất hiện, có mặt dưới dạng thô, đều nên buông bỏ, chỉ giữ lại Xả với tốc độ nhanh chóng”Ví như một người duỗi tay ra, co tay lại, một cách dễ dàng. Đây gọi là pháp vô thượng căn tu tập đối với sự tiếp xúcva chạm (sự mềm mại, êm ái, lạnh, nóng… ), do thân nhận thức.

 

A. KINH VĂN  (tiếp theo)

Lại nữa này Ananda, Tỷ-kheo ý nhận thức các pháp khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: “Khả ý này khởi lên nơi ta, bất khả ý này khởi lên, khả ý bất khả ý này khởi lên. Cái này khởi lên, vì là hữu vi nên thô. (Nhưng) cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả”. Cho nên dầu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý, hay khả ý bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Này Ananda, như một người cho nhỏ hai ba giọt nước trong một cái chậu bằng sắt đun nóng mỗi ngày, này Ananda, các giọt nước rơi rất chậm nhưng chúng bị tiêu diệt, biến đi rất mau; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên, khả ý, bất khả ý hay khả ý bất khả ý, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các pháp do ý nhận thức.

Như vậy, này Ananda, là vô thượng căn tu tập trong giới luật của bậc Thánh. (hết trích)

B. TÌM HIỂU NỘI DUNG:

- Khi Ý nhận thức các pháp với sự hài lòng hay không hay lòng, hoặc chưa xác định khởi lên, hãy tuệ tri rằng: “Hài lòng hay không hài lòng, hoặc chưa xác định đã xuất hiện. Hãy mau chóng dứt trừ những cảm thọ này, chỉ giữ lại trạng thái Xả an tịnh thù thắng”. Pháp thực tập này ví như từng giọt nước nhỏ rơi chậm chạp trong cái chậu sắt nóng, chúng bị tiêu diệt vì bốc hơi với tốc độ mau chóng. Phương pháp tu tập này gọi là vô thượng căn đối với các pháp, do Ý nhận thức.

Tóm lại, những điều Đức Thế Tôn thuyết giảng cho Tôn giả Ananda trong các đoạn kinh trên là khi các căn tiếp xúc các trần với sự hài lòng, hay không, hoặc chưa xác định, hành giả cần tuệ tri, tức nhận biết rõ ràng một trong ba cảm thọ đang hiện diện trong tâm. Điểm cốt yếu là thực tập quán sát chánh niệm không để tâm bị cảm thọ lôi kéo. Cảm thọ hài lòng, hay không hài lòng ngay khi ấy tự tiêu diệt, chỉ còn lại trạng thái  Xả.  Xả là trạng thái tâm quân bình thanh thản. Đây mới là pháp “căn tu tập” tối thượng của những bậc Thánh, không chấp trước với các pháp trần khi giác quan tiếp xúc đối tượng.

 

            A. KINH VĂN (tiếp theo)

Và này Ananda, thế nào là đạo lộ của vị hữu học? Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo mắt thấy sắc khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Vì rằng có khả ý khởi lên, có bất khả ý khởi lên, có khả ý bất khả ý khởi lên,vị ấy ưu não, tàm quý, ghét bỏ. Sau khi tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý nhận thức pháp, vị ấy khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Vì rằng có khả ý khởi lên, có bất khả ý khởi lên, có khả ý bất khả ý khởi lên, vị ấy ưu não, tàm quý, ghét bỏ. Như vậy, này Ananda là đạo lộ của vị hữu học. (hết trích).

B. TÌM HIỂU NỘI DUNG:

- Bậc hữu họcChỉ những vị thánh đệ tử của Đức Phật tuy hiểu rõ Phật pháptu hành đạt được một trong  các quả vịDự LưuNhất Lai và Bất Lai, nhưng chưa hoàn toàn dứt sạch lậu hoặc, nên vẫn còn phải nỗ lực tu học nên các vị đó được gọi là bậc hữu họcBậc Vô học là những vị đã chứng quả A-La-Hán đạt được cứu cánh Niết-bàn. Các phương tiện pháp học pháp hành đều buông hết. Các vị này được xếp vào các bậc Vô học.

Về “Con đường tu tập của bậc hữu học”, Đức Thế Tôn dạy rằng khi vị Tỷ-kheo mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, thức tưởng tượng, với tâm hài lòng, hay không hay lòng hoặc trung tính xuất hiện.  Vị ấy xấu hổ vì để tâm dính mắc với cảm thọ nên ghét bỏ (yếm ly), không để tâm vướng mắc với pháp trần nữa.

 

A. KINH VĂN (tiếp theo)

Và này Ananda, thế nào là bậc Thánh, các căn được tu tập? Ở đây, này Ananda, sau khi mắt thấy sắc, vị Tỷ-kheo khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: “Mong rằng tôi an trú với tưởng không yếm ly đối với (sự vật) yếm ly”, thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng không yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: “Mong rằng tôi an trú với tưởng yếm ly đối với (sự vật) không yếm ly”, thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng yếm ly. Nếu vị ấy ước muốn: “Mong rằng tôi an trú với tưởng không yếm ly đối với (sự vật) yếm ly và (sự vật) không yếm ly”, thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng không yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: “Mong rằng tôi an trú với tưởng yếm ly đối với (sự vật) không yếm ly và (sự vật) yếm ly”, thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: “Mong rằng tôi sau khi từ bỏ cả hai yếm ly và không yếm lyan trú xả, chánh niệm tỉnh giác”, thời ở đây, vị ấy an trú xả chánh niệmtỉnh giác.

Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo sau khi tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý nhận thức pháp, vị Tỷ-kheo khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý bất khả ý. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: “Mong rằng tôi an trú với tưởng không yếm ly đối với (sự vật) yếm ly”, thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng không yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: “Mong rằng ta an trú với tưởng yếm ly đối với (sự vật) không yếm ly”, thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: “Mong rằng tôi an trú với tưởng không yếm ly đối với (sự vật) yếm ly và (sự vật) không yếm ly”, thời ở đây, vị ấy an trú vối tưởng không yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: “Mong rằng tôi an trú với tưởng yếm ly đối với (sự vật) không yếm ly và (sự vật) yếm ly”, thời ở đây, vị ấy an trú với tưởng yếm ly. Nếu vị ấy khởi lên ước muốn: “Mong rằng tôi, sau khi từ bỏ cả hai yếm ly và không yếm lyan trú xả, chánh niệmtỉnh giác”, thời ở đây, vị ấy an trú xả, chánh niệmtỉnh giác.

Như vậy, này Ananda, là bậc Thánh, các căn được tu tập(hết trích)

B. TÌM HIỂU Ý NGHĨA TỪ NGỮ VÀ NỘI DUNG

Yếm ly: Có nghĩa là chán ghétlìa bỏ.

Chánh niệm: Nhớ đúng, biết đúng, biết không lời.

Tỉnh giác: Cái biết sáng suốttỉnh thức.

- Tưởng: Gồm hình ảnhý tưởngấn tượng xảy ra trong tâm.

Về đường lối tu tập của các bậc Thánh nhânĐức Phật giảng rằng khi giác quan tiếp xúc trần cảnh, dù hài lòng hay không hài lòng hoặc là trung tính, vị ấy mong gì thì đạt được đó. Đức Phật đề cập đến năm kết quả như sau:

1)  Vị ấy mong rằng: An trú với tưởng không nhàm chán với vật đáng được nhàm chán, thì liền được tưởng không nhàm chán”.

2) Hoặc mong rằng khi :“An trú với tưởng nhàm chán sự vật không đáng nhàm chán, thì liền an trú vào tưởng nhàm chán”.

3) Khi mong muốn “An trú với tưởng không nhàm chán vật đáng nhàm chán hoặc vật không nhàm chánliền an trú trong tưởng không nhàm chán”.

4) Khi mong muốn “An trú với tưởng nhàm chán với vật không nhàm chán và vật nhàm chánthì liền an trú vào tưởng nhàm chán”.

5) Hoặc khi mong rằng: “Sau khi từ bỏ cả hai thái độ nhàm chán và không nhàm chánan trú trong xả, chánh niệmtỉnh giác, thì liền an trú trong trạng thái xả, chánh niệm, tỉnh giác”.

Trên đây là kết quả tu tập qua các căn mà vị Thánh hữu học đạt được. Lúc ban đầu còn thái độ mong muốn “tưởng nhàm chán” hay “tưởng không nhàm chán” đối với cảm thọ “hài lòng, hay không hài lòng, hay trung tính” xuất hiện khi các căn tiếp xúc các trần. Bốn giai đoạn đầu, tâm vị Thánh chưa hoàn toàn thoát khỏi tưởng. Sau cùng tâm của vị ấy vượt qua khỏi hai thái độ nhàm chán, không nhàm chán, làm chủ được tư tưởng của mình, an trú trong Xả,  Chánh NiệmTỉnh giác, tức an trú trong bây giờ và ở đây. Vị ấy thực hành đúng theo nguyên tắc: Giới, Định, Huệ. An trú trong Xả tức không dính mắc với hai bên là Giới. Chánh niệm là Biết không lời. Biết không lời là đặc tính của tánh giác, tức Định. Tỉnh giác là cái biết rõ ràng sáng suốt là Tuệ. Như vậy,  Chánh Niệm Tỉnh Giác là nền tảng tu tập đưa đến Giác ngộGiải thoát.

Tóm lại, trên đây là phương pháp tu tập khi các căn tiếp xúc với các trần, hành giả giữ chánh niệm không buông lung chạy theo pháp trần khiến tâm thức bị dao độngThực hành đúng lời Phật dạy, thì dù hành giả ở bất cứ môi trường nào, chốn đông người hay nơi thanh vắng đều kiểm soát được giác quan và làm chủ được nhận thức của mình.

 

A. KINH VĂN (đoạn cuối)

Như vậy, này Ananda, Ta đã giảng vô thượng căn tu tập trong giới các luật bậc Thánh, đã giảng đạo lộ của bậc hữu học, đã giảng bậc Thánh, các căn được tu tập. Này Ananda, những gì một bậc Đạo sư phải làm, vì lòng từ mẫn, mưu cầu hạnh phúc cho các đệ tử, những điều ấy Ta đã làm cho các Ông. Này Ananda, đây là những gốc cây, đây là những chỗ trống. Này Ananda, hãy Thiền tư, chớ có phóng dật, chớ có hối hận về sau. Đây là những lời giáo giới của Ta cho các Ông.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. (hết trích)

B. NỘI DUNG ĐOẠN KINH CUỐI:

Đoạn kinh cuối này, Đức Phật cho Tôn giả  Ananda biết rằng: Vì mong muốn các đệ tử có được đời sống an lạc hạnh phúc nên Ngài đã giảng dạy phương thức tối thượng căn tu tập. Đây là đạo lộ tâm linh của các bậc Thánh hữu họcĐức Phật đã làm tròn phận sự của bậc Đạo Sư. Còn lại là phần thực hành của đệ tửĐức Phật nhắn nhủ Tôn giả Ananda cũng như các vị Tỷ-kheo hãy đến gốc cây, đến những chỗ thanh vắng tọa thiền, chớ có buông lung phóng dật để khỏi lo lắng hối hận về sau. Nghe lời Phật dạy, Ngài Ananda vô cùng hoan hỷ vâng lời làm theo.

 

III.  CHÚNG TA HỌC ĐƯỢC GÌ TỪ “KINH VĂN TU TẬP” ?

Đọc nhiều lần bài kinh này, chúng ta rút ra bài học về cách tu tập các căn. Chúng ta biết rằng, sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, chỉ là sáu cánh cửa tiếp xúc với trần cảnh một cách vô tội vạ.  Mỗi cánh cửa tự nó lần lượt đón nhận  những vị khách riêng của mình và thành lập một thế giới riêng, nhưng ảnh hưởng toàn bộ tâm thức của con người. Sắc của mắt. Âm thanh của tai. Hương thơm của mũi. Vị của lưỡi. Sự mát mẻ, đê mê của thân. Sự suy nghĩ của ý. Khi các căn tiếp xúc với các trần, nếu chúng ta chỉ giữ cái biết như thật không lời, đối với các pháp, thì ngay khi đó tâm chúng ta ở trong trạng thái Xả, là trạng trái thản nhiên bình ổn. Nhưng nếu có ý thứcý căn xen vào phân biệt, khen chê, bàn tán…  thì sinh ra cảm thọ thích hay không thích, tâm bắt đầu dao động,  đưa đến những ý nghĩ xấu tốt rồi từ đó phát ra lời nói, hành động xấu tốt tạo nghiệp, ảnh hưởng toàn bộ đến thân tâm của con người.

Tóm lại, qua bài kinh này, Đức Phật dạy chúng ta pháp tu căn bản thu thúc lục căn, giữ chánh niệman trú trong bây giờ và ở đây, tức an trú trong trạng thái Xả. Ở những bước đầu chúng ta thực hành bài học vỡ lòng là “chú tâm cảnh giác”. Xử dụng Trí năng tỉnh thức học hỏikiềm chế, huấn luyện tế bào não không phản ứng khi các căn tiếp cận với trần cảnhDần dần các tế bào não quen với sự yên lặng sẽ không có cái “Ta” phản ứng khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, chỉ có cái biết như thật không lời trong bất cứ tình huống nào. 

Khi tâm hoàn toàn yên lặng, chúng ta trực nhận ra tính chất vô thường của vạn pháp. Tất cả mọi thứ trên đời này rồi sẽ đổi thay biến dạng. Với trí tuệ sáng suốtchúng ta sẽ không còn tham đắm với tài, sắc, danh, thực, thùy, do mười tám giới tạo dựng (sáu căn, sáu trần, sáu thức). Lúc bấy giờ chúng ta luôn an trú trong chánh niệm một cách tự nhiên, không cần phải nỗ lực cố gắng nữa. Khi đã thành tựu pháp tu, hành giả hoàn toàn làm chủ cảm thọ (yêu, ghét) cũng như làm chủ tư tưởng, từng bước loại trừ lậu hoặckiết sử (tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến)… sau cùng trở thành bậc A-la-hán là bậc Vô học.

Đạo lộ tâm linh đi đến giải thoát giác ngộcăn bản đầu tiên là phải tu tập từ các căn. Tu tập như thế nào Đức Thế Tôn đã từ bi chỉ rõ trong bài  “Kinh Căn Tu Tập”. Tuy bài kinh này, Đức Thế Tôn giảng dạy cho các bậc xuất gia tu hành cách đây mấy ngàn năm, nhưng vẫn còn giá trị cho tới ngày hôm nay và mãi mãi về sau, không những cho các vị tu sĩ xuất gia mà cho cả chúng đệ tử tại gia, những ai muốn sống cuộc đời tự tại không bị tám gió đời trói buộc cũng có thể thực hành không có gì trở ngại.

Chúng tôi tạm ngừng bài viết tìm hiểu “Kinh Căn Tu Tập” tại đây. Nguyện chúc tất cả quý Phật tử hữu duyên tin sâu Tam Bảotu hành có kết quả tốt./.

 

                                           Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

                                             THÍCH NỮ HẰNG NHƯ                                

                               (Thiền thất CHÂN TÂM ;  31/5/2022)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4385)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4674)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4718)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5880)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3311)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5282)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2948)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4162)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5309)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4278)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3339)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6370)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5360)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4647)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6264)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6121)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3912)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6047)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4650)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4813)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3402)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6298)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4964)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3560)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3493)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5696)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4261)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6017)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5264)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3695)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3779)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3715)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3541)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5380)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4034)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4386)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5834)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3142)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3084)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3886)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4876)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3588)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3069)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4603)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4756)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3470)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4010)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4746)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3592)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3619)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5167)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4178)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3304)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3011)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3048)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3127)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3125)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3495)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4021)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5203)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant