Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Sám Hối Có Được Giải Tội?

19 Tháng Sáu 202213:12(Xem: 1890)
Sám Hối Có Được Giải Tội?
Sám Hối Có Được Giải Tội?
Xem xét một vài trường hợp trong Nikāya

Nguyên Hiệp

Phương Thức Niệm Phật Của Phật Giáo Nam Tông Và Bắc Tông

Ai trước phóng dật, sau không phóng dật,
Sáng chói đời này, như trăng thoát mây,
Ai làm ác nghiệp, nhờ thiện chặn lại,
Sáng chói đời này, như trăng thoát mây”1.

Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáoSám hối là quán chiếu lại bản thân, xem mình đã phạm phải những lỗi lầm gì qua thân, khẩu và ý, từ đó thể hiện tâm ăn năn hối cải, và nguyện không để những hành vi sai trái như vậy xảy ra lại trong tương lai. Sám hối, cũng được cho là để “tỏ bày lỗi lầm của mình trước Phật, Bồ-tát, Sư trưởng hay đại chúng với mục đích mong được diệt tội”2. Vậy sám hối có thật sự diệt được tội hay không? Và ai là người có thể “giải tội” cho mình? Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. 

Nếu nói “Tội tùng tâm khởi tương tâm sám/ Tâm nhược diệt thời tội diệc vong”, thì tội có thể diệt trừ sau khi sám hối và tâm được thanh tịnh. Nhưng trong một số bản kinh thuộc hệ văn học Nikaya, sám hối chỉ có thể làm giảm nhẹ tội đã tạo, mà tội đó không được “diệt trừ” hoàn toàn, cho dù người phạm tội đã sám hối, không chỉ bằng sự ăn nănnhận tội, mà bằng cả sự tu tập chuyển hóa thân tâm của mình. Bài viết này xem xét một vài trường hợp được đề cập đến trong Kinh tạng Pāli, qua đó có thể phần nào cho thấy một vài khía cạnh của vấn đề này.

Trường hợp Tỳ-kheo Bhaddāli

Trường hợp của Tỳ-kheo Bhaddāli được đề cập trong Trung bộ, kinh Bhaddālibản kinh được đặt theo tên của vị Tỳ-kheo này. Bản kinh này thuật lại việc Tỳ-kheo Bhaddāli, cảm thấy ăn năn và hối tiếc, do không thể thực hiện được một học giới mà Đức Phật đã chế định. Học giới ở đây là “ăn chỉ ngồi một lần” (ekasanabhojana), mà nếu ăn như vậy sẽ “ít bệnh, ít não, nhẹ nhàng, có sức và lạc trú”. Nhận thấy mình có lỗi, không thực hiện được học giới này, Tỳ-kheo Bhaddāli đã đến gặp Đức Phật để xin sám hối: “Bạch Thế Tôn, một lỗi lầm đã chiếm đoạt con, thật là ngu ngốc, thật là si mê, thật là bất thiện. Trong khi chúng Tỳ-kheo chấp hành học giới đã được Thế Tôn chế định, con đã tuyên bố sự bất lực của con. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn chấp nhận cho con lỗi lầm này là một lỗi lầm để có thể phòng hộ trong tương lai”.

Đức Thế Tôn sau những lời khiển trách Tỳ-kheo Bhaddāli vì không giữ được học giới, đã nói rằng, “Này Bhaddāli, nếu ông sau khi thấy một lỗi lầm là một lỗi lầm, và như pháp phát lộchúng ta sẽ chấp nhận cho ông. Vì rằng, này Bhaddāli, như vậy là sự lớn mạnh trong giới luật của bậc Thánh, nghĩa là bất cứ ai, sau khi thấy một lỗi lầm là một lỗi lầm, phải như pháp phát lộ và phòng hộ trong tương lai”3.

Trong kinh Bhaddāli chúng ta thấy rằng, việc phát lồ sám hối diễn tiến qua những bước tuần tự sau: thấy được lỗi lầm của mình, ăn năn về lỗi lầm đó, sám hối lỗi lầm, và ngăn chặn lỗi ấy xảy ra lại trong tương lai. Ở đây, Tỳ-kheo Bhaddāli thấy mình có lỗi vì không thực hành trọn vẹn học giới được chế định, sau đó được chư Tỳ-kheo khác khuyên bảo nên tư niệm về điều đó, thầy ăn năn hối lỗi và tìm đến Đức Thế Tôn sám hốiĐức Phật chấp nhận sự sám hối đó và khuyên bảo phải “phòng hộ trong tương lai”.

Bản kinh này không cho ta thấy việc sám hối có thể diệt trừ được tội đã phạm hay không, hay nói cách khác khác là lỗi của một người có được miễn trừ sau khi sám hối hay không, mặc dù bản kinh cho biết rằng, khi một người phạm tội nhưng né tránh tội của mình, không chịu lắng nghe, lại thể hiện sự bất mãn, sân giận... thì “chớ có giải tội ấy một cách mau chóng”. Còn một người phạm lỗi, nhưng nhận lỗi, không thể hiện sự bất mãn hay sân hận đối với những người chỉ ra lỗi lầm cho mình, thì “hãy giải tội ấy một cách mau chóng”. Tuy nhiên ở đây ta có thể hiểu, “giải tội” ở trong ngữ cảnh này không có nghĩa là khiến cho tội đó được diệt trừ, mà có nghĩa là chấp nhận sự sám hối của người phạm lỗi, cho người phạm lỗi tiếp tục sống trong cộng đồng của mình, và lỗi mà vị ấy đã phạm sẽ không được nhắc trở lại. Nhưng bản thân người phạm lỗi cũng sẽ không phạm phải lỗi này nữa trong tương lai.

Một khía cạnh quan trọng khác của việc “giải tội” ở trong bản kinh này là để cho người phạm lỗi có cơ hội “sửa sai” và để người này không thui chột niềm tin, tức rằng để người này không đoạn diệt những phẩm tính tốt còn lại nơi bản thân mà họ có thể phát triển. Sự “giải tội” ở đây như vậy là thể hiện lòng từ bi của cá nhân hay cộng đồng mà người phạm lỗi đối diện “phát lộ”. Ở đây Đức Phật nói rằng,“Nếu chúng ta thường hay kết tội Tỳ-kheo này, thời chút ít lòng tin, chút ít lòng thương của vị ấy sẽ đi đến đoạn diệt. Vậy chúng ta hãy đừng để cho chút ít lòng tin, chút ít lòng thương của vị ấy đoạn diệt”. Và Ngài đưa ra sự so sánh rằng giống như một người chỉ còn lại một mắt, những người thân của vị ấy bảo vệ con mắt còn lại đó và nghĩ rằng không để cho con mắt còn lại này bị hủy diệt.

Nếu con mắt còn lại bị hủy diệt đi, hẳn nhiên, người này sẽ trở thành một người mù lòa, không còn nhìn thấy thứ gì cả. Nếu để những thiện căn còn lại nơi một người phạm lỗi diệt mất, người này sẽ trở nên tăm tối, mất đi niềm tin vào việc có thể trở lại sự thanh sạch và có thể thăng tiến trong lộ trình phát triển tâm linh.

Sự phát lồ sám hối trong kinh Bhaddālilại cho ta thấy thêm một điều khác cũng rất mực quan trọng trong việc sám hối, rằng lỗi của một người cần được chỉ cho biết, nhưng những người chỉ lỗi của người khác phải không phạm lỗi ấy, và họ chỉ ra lỗi lầm không phải vì sự ghét bỏ, mà với lòng từ bi mong muốn cứu giúp người khác, giống như trường hợp người ta bảo vệ con mắt còn lại của một người thân của họ, không để người ấy trở nên mù lòa. Với những người chỉ lỗi như vậy, người phạm lỗi sẽ có sự tin tưởng hơn trong việc nhận lỗi của mình, trong niềm tin rằng việc nhận lỗi sẽ không khiến họ bì dìm xuống sâu hơn mà là cơ hội để họ có thể tiến bộ trong con đường tu tập.

Trong đạo hay trong đời sống xã hội nói chung, chẳng mấy ai dám nhận lỗi hay “tự phê” khi đối diện với họ là một hội chúng thiếu từ bi và trí tuệ, muốn biết lỗi của người khác để rồi đi rêu rao và cũng có cớ làm hại họ. Việc nhận lỗi ở đây không phải được thực hiện một cách bí mật giữa một người với một người, mà được nói ra giữa nhiều người. Tuy nhiên, cho dù việc nhận lỗi được thực hiện trước nhiều người, lỗi lầm của người phạm cần giới hạn trong phạm vi đó, tức là trong phạm vi của những người nghe người kia nhận lỗi, và trong phạm vi một cộng đồng mà ở đó một lỗi lầm như vậy không được vi phạm.

Trường hợp Tôn giả Pukkusati

Trường hợp của Tôn giả Pukkusati được đề cập trong kinh Giới phân biệt (Dhātuvibhanga sutta)4. Vị Tôn giả này vì ngưỡng mộ Đức Phật và giáo pháp của Ngài nên đã từ bỏ gia đình, sống đời du sĩ và thực hành theo pháp Phật. Tuy vậy ông chưa hề một lần gặp Phật và không thể hình dung Ngài là người như thế nào. Tình cờ một lần nọ, trong một đêm ở tại trú xứ của vị thợ gốm tên là Bhaggava, Pukkusati đã gặp được Đức Phật, nhưng vì không nhận ra Ngài nên vị này gọi Đức Phật là Hiền giảĐức Phật sau đó đã thuyết giảng cho Pukkusati. Khi nghe xong những gì được giảng dạy, Tôn giả nhận ra rằng người đối diện với mình không ai khác mà chính là Đức Thế Tôn, người mà ông đã “xuất gia và y cứ” và nhận làm Bậc Đạo sư. Khi ấy Tôn giả Pukkusati nói rằng, do vì “si mê và không khéo léo” ông đã xưng hô với Thế Tôn là Hiền giả, điều ông nghĩ là một lỗi lầm, và vì thế ông mong Thế Tôn nhận lỗi lầm ấy như một lỗi lầm.

Khi ấy Đức Phật nói rằng “...nếu Ông thấy một lỗi lầm là một lỗi lầm, và như pháp phát lộ, thời Ta chấp nhận lỗi lầm ấy cho Ông. Vì rằng, này Tỳ-kheo, đây là sự tăng ích trong giới luật của bậc Thánh, khi nào một ai thấy lỗi lầm là một lỗi lầmnhư pháp phát lộ, để ngăn ngừa trong tương lai”.

Đoạn văn này là giống với đoạn văn ở trong kinh Bhaddāli, tuy rằng trường hợp phạm lỗi của Pukkusati khác với Bhāddali. Trong khi một người phạm lỗi vì không thể thực hiện theo học giới đã được Tăng chúng chấp nhận thực hiện, còn một người phạm lỗi chỉ vì vô ý không nhận ra người đối diện với mình là ai. Trong trường hợp của Pukkusati, ông phạm lỗi - nếu phải nói như thế - chỉ vì sự nhầm lẫn; và việc nhận lỗi của ông có thể xem như một sự “xin lỗi” hơn là một sự “sám hối”. Tuy nhiên, dù mức độ lỗi lầm như thế nào, việc nhận ra nó và sám hối, đều có sự “tăng ích” trong cuộc sống cũng như trong tu tập. Và thêm nữa, ở trong bản kinh này, Pukkusati phạm “lỗi lầm” với chính Đức Phật, và việc “nhận lỗi lầm cho ông” có thể được xem như việc Ngài bỏ qua sự nhầm lẫn này.

Trường hợp Ajātasattu

Ajātasattu (A Xà Thế) được nhắc đến khá nhiều trong kinh sách Phật giáo. Việc ông cấu kết với Đề Bà Đạt Đa để làm những điều bất thiện, cũng như việc ông giết hại cha của mình để soán ngôi đã trở thành những ví dụ điển hình về mối liên hệ giữa lòng tham quyền lực và cái ác. Nhưng câu chuyện về vua Ajātasattu cũng phản ánh một khía cạnh khác, rằng sự cải tà quy chánh, sự ăn năn hối lỗi có thể khiến người ta trở nên hiền thiện hơn, và chính lòng ăn năn hối lỗi sẽ giúp người ta tiến bộ hơn trong đời sống xã hội cũng như trong đường đạo.

Câu chuyện về Ajātasattu đến gặp Đức Phật và thể hiện lòng ăn năn vì đã giết cha của mình để đoạt ngôi được đề cập trong kinh Sa-môn quả5. Tuy nhiên, nội dung chính của bản kinh này không phải dành riêng cho câu chuyện này; câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Đức Phật và Ajātasattu chỉ là “duyên khởi” cho một nội dung kinh quan trọng hơn, là nói về các “quả” của những nhóm Sa-môn khác nhau. Việc Ajātasattu sám hối chỉ được đề cập đến ở phần cuối của bản kinh. Và ở đây ta xem xét là việc nhận tội của nhà vua có giúp vị vua này trừ diệt được trọng tội của mình hay không. Hay nói cách khác, việc sám hối tội lỗi do mình gây ra có giúp vị vua này tránh khỏi nghiệp quả của mình hay không.

Trước hết, cũng như ở trong kinh Bhaddāli, việc sám hối bắt đầu từ việc nhận ra lỗi của mình. Trong trường hợp của vua Ajātasattu, ông đã nhận thấy việc sát hại cha của ông là một trọng tội. Khi ông thấy đó là một trọng tội được gây nên bởi lòng tham quyền lực và vô minh, ông muốn thú nhận tội ấy. Và người mà ông tin tưởng và có thể đối diện sám hối là Đức Phật. Đoạn kinh trình bày về việc nhận lỗi của vua Ajātasattu như sau: “Bạch Thế Tôn, con đã phạm một trọng tội. Vì ngu si, vì vô minh, vì bất thiện, con đã hại mạng phụ vương con, một vị vua chơn chánh, để đoạt vương quyền. Mong Thế Tôn nhận cho con tội ấy là một tội để con ngăn chặn về tương lai”.

Và khi vua Ajātasattu ăn năn nhận lỗiĐức Phật đã nói như sau: “Đại vương, thật là một trọng tội. Vì ngu si, vì vô minh, vì bất thiệnĐại vương đã hại mạng phụ vương, một vị vua chơn chánh, để đoạt vương quyền. Vì Đại vương đã thấy tội ấy là một tội, đã thú tội đúng với Chánh pháp, Ta nhận tội ấy cho Đại vương. Đó là một sự tiến bộ, này Đại vương, trong luật pháp của bậc Thánh, những ai thấy tội là tội, thú tội đúng với Chánh pháp, và ngăn chặn ở tương lai”.

Như vậy, sự nhận tội là một sự tiến bộ và tội ấy phải không được phạm lại ở trong tương lai. Nhưng ở trong đoạn kinh này, Đức Phật “nhận tội” của vị vua này, không có nghĩa rằng Ngài đã “xá” tội cho ông. Mà ở đây chỉ có nghĩa rằng, Ngài chấp nhận sự sám hối đó và việc nhận lỗi và sám hối như vậy là phù hợp với Chánh pháp, và sự nhận lỗi như vậy cũng sẽ góp phần giải tỏa tâm lý của người phạm lỗi. 

Về mặt nhân quả, nhân của tội ấy không được diệt trừ hoàn toàn sau khi sám hối và người gieo nhân phải gặt quả, nhưng tất nhiên ở đây nhân quả không được trình bày theo kiểu: trồng dưa hái dưa, gieo lúa gặt lúa; ông đã giết cha để cướp ngôi thì con ông sẽ thực hiện điều tương tự như vậy đối với ông hoặc trong đời này hoặc trong kiếp sau. Mà nhân quả ở đây được diễn tả qua việc, bởi do vì đã gây nên tội giết cha, cho dù đã ăn năn sám hốinghiệp nhân đó đã có những tác động tiêu cực đến việc phát triển trong đường đạo của ông. Điều này được trình bày qua đoạn kinh: “Này các Tỳ-kheo, tâm vua ấy rất ăn năn, này các Tỳ-kheo, tâm vua ấy rất hối lỗi. Nếu vua ấy không hại mạng vua cha, một vị vua rất chân chánh, thì tại ngay chỗ ngồi này, vua ấy đã chứng được pháp nhãnkhông trần cấu, không ô uế”.

Như vậy, nếu Ajātasattu không phạm tội giết cha, thì khi nghe Đức Phật thuyết giảng về các “Sa-môn quả” và với sự chân thành ngay nơi việc phát nguyện quy y Tam bảo, ông đã “chứng được pháp nhãn”, nhưng do vì phạm tội giết cha, ông đã không chứng đắc được điều ấy. Tuy nhiên, trong kinh Sa-môn quả thuộc Trường A-hàm, sau khi Ajātasattu ra về, Đức Phật đã nói với các Tỳ-kheo rằng: “Vua A Xà Thế này, tội lỗi đã vơi bớt, đã nhổ trọng tội. Nếu A Xà Thế không giết cha, thì ngay tại chỗ này đã được con mắt thanh tịnh thấy pháp. Nhưng vua A Xà Thế nay đã hối lỗitội lỗi đã vơi bớt, đã nhổ trọng tội”6. Như vậy kinh Sa-môn quả thuộc Trường A-hàm xác định rằng, vị vua này đã giảm bớt tội lỗi, đã nhổ trọng tội nhờ ăn năn sám hối và quy y Tam bảo!

Trường hợp Angulimāla

Ở đây ta xét thêm một trường hợp khác để hiểu rõ hơn vấn đề này, trường hợp của Tôn giả Angulimāla, được đề cập đến trong kinh Angulimāla7, dù rằng bản kinh này không đề cập trực tiếp đến việc Angulimāla nhận lỗi với Đức Phật như những trường hợp ở trên. Angulimāla trước đó là một tên cướp giết người khét tiếng, được cho là “bàn tay vấy máu, sát hại, bạo tàn, không có lòng từ mẫn đối với chúng sanh”. Nhưng sau khi gặp và xuất gia theo Phật, ông đã tu tập tinh chuyên và chứng đắc Thánh quả. Nhưng dầu chứng đắc Thánh quả A-la-hán, nghiệp nhân ông tạo trong đời hiện tại cũng đã trổ thành quảTuy nhiênnghiệp quả mà ông thọ nhận nhẹ hơn rất nhiều so với nghiệp nhân ông đã tạo. Điều này xảy ra nhờ bởi sự sám hối chân thành của ông, cũng như nhờ sự tu tập chuyển hóa, và chứng đắc Thánh quả của ông.

Bản kinh này thuật rằng, trong một lần đi khất thựcTôn giả Angulimāla bị “lỗ đầu, chảy máu, bình bát bị bể, ngoại y bị rách” do một người nào đó vô tình ném đất đá, gậy gộc vào ông. Và khi ông đến gặp Đức Phật để thuật lại sự việc, Đức Phật nói rằng: “Hãy kham nhẫn, này Bà-la-môn! Hãy kham nhẫn, này Bà-la-môn! Ông đang gặt hái ngay trong hiện tại quả báo của nghiệp mà đáng lẽ ông phải chịu nấu sôi ở địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm”. Như vậy, nếu không sám hốitu tập và chứng quả, vị Tôn giả này sẽ phải đọa vào địa ngục trong một khoảng thời gian lâu dài, nhưng nhờ sám hối và tu tậptội nghiệp của ông được chuyển thành nhẹ hơn, và ông cũng phải nhận lấy quả báo đó.

Nhưng ở đây cũng cần nói thêm rằng, nhân tố chính giúp cho Angulimāla giảm bớt việc thọ nhận nghiệp quả không phải là việc “nhận tội” như một sự sám hối, mà chính nhờ vào việc tu tập chuyển hóa của ông. Tuy nhiên, việc nhận ra tội và sám hối lại chính là bước tiên khởi để ông bước vào Thánh đạo

Nguyên Hiệp

 ___________________

(1) Trung bộ, tập II, kinh Angulimāla, HT.Minh Châu dịch, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 2000, tr.517.

(2) Thích Minh Cảnh chủ biên, Từ điển Phật học Huệ Quang, tập IV, NXB. TP.Hồ Chí Minh, 2004, tr.916. Kinh Tứ thập nhị chương, chương V, thì cho rằng, người có lỗi lầm mà không sám hối để chấm dứt tội ấy thì tội chất chồng vào thân ngày càng lớn, như nước chảy về biển dần trở nên sâu rộng. Còn người phạm tội mà nhận biết được tội, bỏ ác làm lành thì tội tiêu diệt.

(3) Kinh Trung bộ, tập II, kinh Bhaddāli, HT.Minh Châu dịch, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 2000, tr.215.

(4) Trung bộ, tập III, kinh Giới phân biệt, HT.Minh Châu dịch, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1992, tr.541

(5) Trường bộ, tập I, kinh Sa-môn quảHT.Minh Châu dịch, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1991, tr.93

(6) Trường A-hàm, kinh Sa-môn quả, TT.Thích Tuệ Sỹ dịch.

(7) Trung bộ, kinh Angulimāla, HT.Minh Châu dịch, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 2000, tr.215.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1642)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1573)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1495)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1077)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1465)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1411)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1333)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1378)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1709)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1969)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1434)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1093)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1428)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2017)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1469)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1551)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1388)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2902)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1373)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1408)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1720)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1680)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1631)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1476)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2640)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1602)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1612)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1404)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1423)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1616)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1559)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1442)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1426)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1517)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2202)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1545)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1508)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1620)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1835)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1532)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1410)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1667)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1421)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1696)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2378)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1470)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1950)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1680)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1758)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1617)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1955)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1683)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1439)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1728)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1581)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1544)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1337)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1254)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1297)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1525)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant