Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ánh Sáng Bản Tâm Theo Lục Tổ Huệ Năng

06 Tháng Bảy 202215:35(Xem: 1932)
Ánh Sáng Bản Tâm Theo Lục Tổ Huệ Năng

Ánh Sáng Bản Tâm Theo Lục Tổ Huệ Năng

Nguyễn Thế Đăng

 Ánh Sáng Bản Tâm Theo Lục Tổ Huệ Năng



Bản tâm
tự tâmbản tánhtự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để chỉ bản tánh của tâm, tự tánh của tâm; nhưng danh từ tự tánh được ngài dùng nhiều nhất. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, ngài Huệ Năng nói bản tâm là tánh Không và ánh sáng (hay tánh sáng). Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu chi tiết hơn về hai tính cách chính của bản tâm là tánh Không và ánh sáng.

 

1/Bản tâm là tánh Không.

Ngài Huệ Năng nói Ma ha Bát nhã ba la mật (Đại Trí huệ rốt ráo) như sau:

Các thiện tri thức! Người đời suốt ngày miệng niệm Bát nhã (Trí huệ) mà chẳng biết tự tánh Bát nhã cũng như nói ăn mà chẳng no. Miệng chỉ nói Không thì muôn kiếp chẳng được cái thấy tánh, rốt cuộc không ích gì. Miệng niệm tâm làm, ắt tâm miệng tương ưngBản tánh là Phật, lìa tánh thì không có Phật mà nào khác.

Sao gọi là Ma ha? Ma ha là lớn, tâm lượng rộng lớn như hư không, không có biên bờ, cũng không vuông tròn lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không giận không vui, không phải không trái, không lành không dữ, không đầu không cuối. Các cõi Phật đồng như hư không, diệu tánh của người đời vốn Không, không có pháp nào có thể đắc. Tự tánh Chân Không cũng lại như vậy”. (phẩm Trí Huệ)

 

“Bản tánh là Phật, tự tâm là Phật”. Đây là nền tảng chung của tất cả Phật giáo.

Đạo sư Padmasambhava (khoảng thế kỷ thứ 8-9), một trong những vị truyền Phật giáo vào Tây Tạng, cũng dạy:

“Tất cả chư Phật trong ba thời

Chứng ngộ tự tâm vượt khỏi sanh khởi

Từ trạng thái vô sanh này, các ngài thị hiện như ba thân

Và không thể thành tựu nếu lìa khỏi đó

Hãy quyết chắc điều này”.

(Treasures from Juniper Ridge - Những Kho tàng từ đỉnh cây Tùng xù – nxb Thiện Tri Thức 2020)

Đoạn sau Lục Tổ nói về tự tánh Chân Không, bao trùm tất cả mọi hiện hữu. Không những tánh Không bao trùm tất cả mọi hiện hữu, mà mọi hiện hữu đều là tánh Không.  

Tâm và cảnh đều là tánh Không:

Các cõi Phật đồng như hư không, diệu tánh của người đời vốn Không, không có pháp nào có thể đắc”.

 

Thiện tri thức! Hư không thế giới bao hàm vạn vật sắc tướngmặt trời mặt trăng tinh tú, núi sông đất đai, suối nguồn, khe rạch, cây cỏ, rừng rú, người thiện, người ác, pháp thiện, pháp ác, thiên đường địa ngục, tất cả đại dương, các núi Tu di, đều ở trong Không. Tánh Không của người đời cũng lại như vậy”.

Thế giớichúng sanh, và tâm là tánh KhôngTánh Không là thật tánh của tất cả thân tâm và thế giớichúng sanh.

Thế nên Lục Tổ quy pháp môn của ngài về Vô niệmVô tướng và Vô trụ:

Thiện tri thức! Pháp môn đây của ta từ xưa đến nay, trước hết lập Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc. Vô tướng là nơi tướng mà lìa tướngVô niệm là nơi niệm mà lìa niệm. Vô trụ là bản tánh của con người” (phẩm Định Huệ).

Vô tướngVô niệmVô trụ là tánh Không. Như thế, thực hành thiền định thiền quán bản tâm hay tự tánh là thiền định thiền quán tánh Không.

 

2/ Bản tâm là ánh sáng

Bản tâm không phải là trống rỗng, chẳng có gì cả, chẳng là gì cả. Lục Tổ bác bỏ cái không vô ký này: 

Thiện tri thức! Chớ nghe ta nói Không bèn bám chấp không. Thứ nhất chớ bám chấp không, nếu tâm trống không mà ngồi yên lặng, tức là bám chấp vào cái không vô ký. Lại có người mê, tâm trống không mà tĩnh tọa, trăm thứ không nghĩ, bèn tự cho đây là lớn. Với hạng người ấy không thể nói được, vì mắc vào tà kiến” (phẩm Trí huệ).

Bản tâm có ánh sáng, phóng ánh sáng:

Trên đất tâm mình là tánh giác Như Lai, phóng ánh sáng lớn, ngoài soi sáu cửa thanh tịnh, hay phá các cõi trời Lục dụcTự tánh chiếu vào bên trong ba độc liền dứt, các tội địa ngục nhất thời tiêu diệt. Trong ngoài sáng suốt chẳng khác Tây phương. Chẳng tu như thế thì làm sao đến cõi kia được”. (phẩm Nghi vấn)

Ánh sáng ấy thường hiện hữu nơi tâm mỗi người, chỉ vì chạy theo các bóng dáng bên ngoài nên tự che lấp:

Tất cả chúng sanh vì tự che lấp ánh sáng, tham ái trần cảnh, ngoài thì duyên níu, trong thì nhiễu loạn, nên đành chịu rong ruổi theo sanh tử” (phẩm Cơ duyên).

Bản tâm hay tự tánh chính là Thanh tịnh Pháp thân Phật, trong đó thường sáng như mặt trời mặt trăng:

Sao gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật? Người đời tánh vốn thanh tịnh. Muôn pháp đều từ tự tánh sanh, nghĩ lường tất cả sự ác tức sanh hạnh ác, nghĩ lường tất cả sự thiện tức sanh hạnh thiện. Như vậy các pháp ở trong tự tánh mình, như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, nhưng vì mây bay che lấp nên trên sáng dưới tối. Bỗng gặp gió thổi mây tan thì trên dưới đều sáng, muôn hình tượng đều hiện.

Thiện tri thức! Trí như mặt trời, huệ như mặt trăngTrí huệ thường sáng, do vì ở ngoài bám cảnh nên bị đám mây vọng niệm che khuất tự tánh mà chẳng được sáng tỏ” (phẩm Sám hối).

Bản tâm tự có ánh sáng, mà Lục Tổ gọi là “linh quang chính mình”:

Chẳng thấy một pháp còn cái không thấy

Giống như mây nổi che mặt trời

Chẳng biết một pháp giữ cái không biết

Lại như hư không sanh điện chớp.

Cái thấy biết này bỗng dấy lên

Lầm nhận đâu từng hiểu phương tiện

Ông phải một niệm tự biết sai

Linh quang chính mình thường hiển hiện.

(phẩm Cơ duyên).

 

Trong phẩm Định HuệLục Tổ giảng định và huệ là một thể, định như ngọn đèn, huệ như ánh sáng, cả hai không lìa nhau:

Thiện tri thức! Pháp môn đây của ta lấy định huệ làm căn bảnĐại chúng chớ mê mà nói định huệ riêng khác. Định và huệ là một thể, chẳng phải là hai. Định là thể của huệ, huệ là dụng của định, ngay lúc huệ thì định ở trong huệ, ngay lúc định thì huệ ở trong định. Nếu biết nghĩa đây tức là định huệ đồng học.

Thiện tri thức! Định huệ do đâu mà bình đẳng? Giống như đèn sáng, có đèn là sáng, không đèn thì tối. Đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của đèn, tên tuy có hai, thể vốn đồng nhất. Pháp định huệ đây cũng như vậy”.

Một chữ trong kinh luận thường được dùng đồng nghĩa với định huệ là chỉ quán. Ngài Huệ Năng dạy pháp Thiền của ngài là “định huệ đồng học”, “định huệ bình đẳng”, tức là chỉ quán đồng thời.

Định hay chỉ, là tánh Không bất động, tịch lặng. Huệ hay quán là ánh sáng bản tâm thường soi chiếu. Định huệtánh Không và ánh sáng, Không Và Minh, vốn có nơi bản tâmĐịnh huệ vốn có là Không-Minh, Tịch-Chiếu vốn có nơi bản tâm và cũng chính là bản tâm, là bản tánh của tâm. 

Nhận biết tánh Không và tánh sáng (“tánh sáng” là chữ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông dùng nhiều trong Cư Trần Lạc Đạo Phú để chỉ ánh sáng bản tâm) là con đường trở về với bản tâm vốn là tánh Không và tánh sáng.

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn còn nhiều chỗ nói đến ánh sáng của bản tâm. Ở đây chỉ trích thêm vài đoạn.

Vô thượng đại Niết bàn

Tròn sáng thường tịch chiếu

Phàm ngu gọi là chết

Ngoại đạo chấp là đoạn…

(phẩm Cơ duyên)

Ba thân nguyên thể mình

Bốn trí vốn tâm minh

Thân trí dung không ngại

Ứng vật mặc tùy hình…

(phẩm Cơ duyên)

 

3/ Thấy và sống trong tánh Không và tánh sáng

Người ta không thấy và không sống được trong bản tâm tánh Không và tánh sáng bởi vì bị che chướng bởi các phiền não của mình và bởi các tướng bên ngoài, do đó bị lạc vào sanh tửLục Tổ nói:

Ông nay phải biết: Phật vì tất cả các người mê, họ nhận năm uẩn hòa hiệp làm tướng ngoại trần, rồi ham sống ghét chết, niệm niệm trôi lăn, chẳng biết là mộng huyễn hư giả, uổng chịu luân hồi, lấy Niết bàn thường lạc chuyển thành tướng khổ mà trọn ngày tìm kiếm.

Vì thế Phật thương xót nên chỉ bày Niết bàn chân lạc, trong sát na không có tướng sanh, trong sát na không có tướng diệt, lại không có sanh diệt nào để diệt, đây là tịch diệt hiện tiềnĐang khi hiện tiền cũng không có cái lượng hiện tiền mới gọi là thường lạc.

Cái lạc này không có người thọ cũng không có người không thọ, thế thì làm sao có tên một thể năm dụng? Huống gì lại nói Niết bàn cấm ngăn các pháp, làm cho vĩnh viễn chẳng sanh. Đó là báng Phật, nhạo Pháp”. (phẩm Cơ duyên)

Sống trong bản tâm tánh Không tánh giác thì biết năm uẩnthế giới ngoại trần là mộng huyễn hư giả, nên chẳng bị trôi lăn trong sanh tử hư vọng.

Khi an trụ trong bản tâm tánh Không tánh sáng thì tất cả sanh tử đều “bình đẳng như mộng huyễn”, vì tất cả mọi hình tướng đều là sự hiện bóng như huyễn như mộng trên nền tảng tánh Không và tánh sáng:

Chỉ người vượt thức lượng

Thông đạt không lấy bỏ

Vì biết pháp năm uẩn

Và ngã trong năm uẩn.

Ngoài hiện các sắc tượng

Tất cả tướng âm thanh

Bình đẳng như mộng huyễn

Không khởi (cái) thấy phàm thánh

Không tạo (cái) thấy Niết bàn

Hai bên, ba thời dứt…

(phẩm Cơ duyên)

 

Khi an trụ trong tánh Không và tánh sáng thì tất cả pháp giới trở thành môi trường của tự do:

Thiện tri thức! Tâm lượng rộng lớn khắp cả pháp giới, dùng bèn rõ rõ phân minhỨng dụng liền biết hết thảy, tất cả là một, một là tất cả, đến đi tự do, tâm thể không ngưng ngại, tức là Trí huệ Bát nhã”. (phẩm Trí huệ)

Niệm niệm an trụ trong tánh Không và tánh sáng đó là thực hành, đó là thường trực thấy tánh:

Niệm niệm thường tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu tự hành, tự thành Phật đạo” (phẩm Ngồi thiền).

An trụ trong tánh Không và tánh sáng thì giải thoát ngay trong cuộc đời này, tự do ngay trong thế gian này. Vì tất cả mọi tướng xuất hiện đều “bình đẳng như mộng như huyễn”, đây là tự do, nên lập cũng được, không lập cũng được:

Nếu ngộ tự tánh thì cũng chẳng lập Bồ đề Niết bàn, cũng chẳng lập giải thoát tri kiến. Không có một pháp có thể đắc mới có thể kiến lập muôn pháp. Nếu rõ ý này, cũng gọi là Phật thân, cũng gọi là Bồ đề Niết bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến.

Người thấy tánh thì lập cũng được, không lập cũng được, đến đi tự do, không ngưng không ngại, ứng dụng tùy làm, ứng lời tùy đáp, hiện khắp Hóa thân mà chẳng lìa tự tánh, tức là được tự tại thần thôngdu hý tam muội. Ấy gọi là thấy tánh” (phẩm Đốn tiệm).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1618)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1540)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1482)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1069)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1456)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1399)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1310)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1361)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1697)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1912)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1425)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1086)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1418)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1981)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1447)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1541)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1376)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2837)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1367)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1400)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1703)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1660)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1622)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1458)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2619)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1599)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1597)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1397)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1415)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1599)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1537)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1437)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1415)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1503)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2175)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1528)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1475)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1592)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1815)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1505)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1375)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1645)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1385)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1670)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2351)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1442)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1932)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1656)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1728)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1598)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1924)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1652)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1415)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1713)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1566)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1524)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1311)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1239)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1279)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1512)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant