Ánh Sáng Bản Tâm Theo Lục Tổ Huệ Năng
Nguyễn Thế Đăng
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để chỉ bản tánh của tâm, tự tánh của tâm; nhưng danh từ tự tánh được ngài dùng nhiều nhất. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, ngài Huệ Năng nói bản tâm là tánh Không và ánh sáng (hay tánh sáng). Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu chi tiết hơn về hai tính cách chính của bản tâm là tánh Không và ánh sáng.
1/Bản tâm là tánh Không.
Ngài Huệ Năng nói Ma ha Bát nhã ba la mật (Đại Trí huệ rốt ráo) như sau:
“Các thiện tri thức! Người đời suốt ngày miệng niệm Bát nhã (Trí huệ) mà chẳng biết tự tánh Bát nhã cũng như nói ăn mà chẳng no. Miệng chỉ nói Không thì muôn kiếp chẳng được cái thấy tánh, rốt cuộc không ích gì. Miệng niệm tâm làm, ắt tâm miệng tương ưng. Bản tánh là Phật, lìa tánh thì không có Phật mà nào khác.
Sao gọi là Ma ha? Ma ha là lớn, tâm lượng rộng lớn như hư không, không có biên bờ, cũng không vuông tròn lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không giận không vui, không phải không trái, không lành không dữ, không đầu không cuối. Các cõi Phật đồng như hư không, diệu tánh của người đời vốn Không, không có pháp nào có thể đắc. Tự tánh Chân Không cũng lại như vậy”. (phẩm Trí Huệ)
“Bản tánh là Phật, tự tâm là Phật”. Đây là nền tảng chung của tất cả Phật giáo.
Đạo sư Padmasambhava (khoảng thế kỷ thứ 8-9), một trong những vị truyền Phật giáo vào Tây Tạng, cũng dạy:
“Tất cả chư Phật trong ba thời
Chứng ngộ tự tâm vượt khỏi sanh khởi
Từ trạng thái vô sanh này, các ngài thị hiện như ba thân
Và không thể thành tựu nếu lìa khỏi đó
Hãy quyết chắc điều này”.
(Treasures from Juniper Ridge - Những Kho tàng từ đỉnh cây Tùng xù – nxb Thiện Tri Thức 2020)
Đoạn sau Lục Tổ nói về tự tánh Chân Không, bao trùm tất cả mọi hiện hữu. Không những tánh Không bao trùm tất cả mọi hiện hữu, mà mọi hiện hữu đều là tánh Không.
Tâm và cảnh đều là tánh Không:
“Các cõi Phật đồng như hư không, diệu tánh của người đời vốn Không, không có pháp nào có thể đắc”.
“Thiện tri thức! Hư không thế giới bao hàm vạn vật sắc tướng, mặt trời mặt trăng tinh tú, núi sông đất đai, suối nguồn, khe rạch, cây cỏ, rừng rú, người thiện, người ác, pháp thiện, pháp ác, thiên đường địa ngục, tất cả đại dương, các núi Tu di, đều ở trong Không. Tánh Không của người đời cũng lại như vậy”.
Thế giới, chúng sanh, và tâm là tánh Không. Tánh Không là thật tánh của tất cả thân tâm và thế giới, chúng sanh.
Thế nên Lục Tổ quy pháp môn của ngài về Vô niệm, Vô tướng và Vô trụ:
“Thiện tri thức! Pháp môn đây của ta từ xưa đến nay, trước hết lập Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc. Vô tướng là nơi tướng mà lìa tướng. Vô niệm là nơi niệm mà lìa niệm. Vô trụ là bản tánh của con người” (phẩm Định Huệ).
Vô tướng, Vô niệm, Vô trụ là tánh Không. Như thế, thực hành thiền định thiền quán bản tâm hay tự tánh là thiền định thiền quán tánh Không.
2/ Bản tâm là ánh sáng
Bản tâm không phải là trống rỗng, chẳng có gì cả, chẳng là gì cả. Lục Tổ bác bỏ cái không vô ký này:
“Thiện tri thức! Chớ nghe ta nói Không bèn bám chấp không. Thứ nhất chớ bám chấp không, nếu tâm trống không mà ngồi yên lặng, tức là bám chấp vào cái không vô ký. Lại có người mê, tâm trống không mà tĩnh tọa, trăm thứ không nghĩ, bèn tự cho đây là lớn. Với hạng người ấy không thể nói được, vì mắc vào tà kiến” (phẩm Trí huệ).
Bản tâm có ánh sáng, phóng ánh sáng:
“Trên đất tâm mình là tánh giác Như Lai, phóng ánh sáng lớn, ngoài soi sáu cửa thanh tịnh, hay phá các cõi trời Lục dục. Tự tánh chiếu vào bên trong ba độc liền dứt, các tội địa ngục nhất thời tiêu diệt. Trong ngoài sáng suốt chẳng khác Tây phương. Chẳng tu như thế thì làm sao đến cõi kia được”. (phẩm Nghi vấn)
Ánh sáng ấy thường hiện hữu nơi tâm mỗi người, chỉ vì chạy theo các bóng dáng bên ngoài nên tự che lấp:
“Tất cả chúng sanh vì tự che lấp ánh sáng, tham ái trần cảnh, ngoài thì duyên níu, trong thì nhiễu loạn, nên đành chịu rong ruổi theo sanh tử” (phẩm Cơ duyên).
Bản tâm hay tự tánh chính là Thanh tịnh Pháp thân Phật, trong đó thường sáng như mặt trời mặt trăng:
“Sao gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật? Người đời tánh vốn thanh tịnh. Muôn pháp đều từ tự tánh sanh, nghĩ lường tất cả sự ác tức sanh hạnh ác, nghĩ lường tất cả sự thiện tức sanh hạnh thiện. Như vậy các pháp ở trong tự tánh mình, như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, nhưng vì mây bay che lấp nên trên sáng dưới tối. Bỗng gặp gió thổi mây tan thì trên dưới đều sáng, muôn hình tượng đều hiện.
Thiện tri thức! Trí như mặt trời, huệ như mặt trăng. Trí huệ thường sáng, do vì ở ngoài bám cảnh nên bị đám mây vọng niệm che khuất tự tánh mà chẳng được sáng tỏ” (phẩm Sám hối).
Bản tâm tự có ánh sáng, mà Lục Tổ gọi là “linh quang chính mình”:
Chẳng thấy một pháp còn cái không thấy
Giống như mây nổi che mặt trời
Chẳng biết một pháp giữ cái không biết
Lại như hư không sanh điện chớp.
Cái thấy biết này bỗng dấy lên
Lầm nhận đâu từng hiểu phương tiện
Ông phải một niệm tự biết sai
Linh quang chính mình thường hiển hiện.
(phẩm Cơ duyên).
Trong phẩm Định Huệ, Lục Tổ giảng định và huệ là một thể, định như ngọn đèn, huệ như ánh sáng, cả hai không lìa nhau:
“Thiện tri thức! Pháp môn đây của ta lấy định huệ làm căn bản. Đại chúng chớ mê mà nói định huệ riêng khác. Định và huệ là một thể, chẳng phải là hai. Định là thể của huệ, huệ là dụng của định, ngay lúc huệ thì định ở trong huệ, ngay lúc định thì huệ ở trong định. Nếu biết nghĩa đây tức là định huệ đồng học.
Thiện tri thức! Định huệ do đâu mà bình đẳng? Giống như đèn sáng, có đèn là sáng, không đèn thì tối. Đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của đèn, tên tuy có hai, thể vốn đồng nhất. Pháp định huệ đây cũng như vậy”.
Một chữ trong kinh luận thường được dùng đồng nghĩa với định huệ là chỉ quán. Ngài Huệ Năng dạy pháp Thiền của ngài là “định huệ đồng học”, “định huệ bình đẳng”, tức là chỉ quán đồng thời.
Định hay chỉ, là tánh Không bất động, tịch lặng. Huệ hay quán là ánh sáng bản tâm thường soi chiếu. Định huệ, tánh Không và ánh sáng, Không Và Minh, vốn có nơi bản tâm. Định huệ vốn có là Không-Minh, Tịch-Chiếu vốn có nơi bản tâm và cũng chính là bản tâm, là bản tánh của tâm.
Nhận biết tánh Không và tánh sáng (“tánh sáng” là chữ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông dùng nhiều trong Cư Trần Lạc Đạo Phú để chỉ ánh sáng bản tâm) là con đường trở về với bản tâm vốn là tánh Không và tánh sáng.
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn còn nhiều chỗ nói đến ánh sáng của bản tâm. Ở đây chỉ trích thêm vài đoạn.
Vô thượng đại Niết bàn
Tròn sáng thường tịch chiếu
Phàm ngu gọi là chết
Ngoại đạo chấp là đoạn…
(phẩm Cơ duyên)
Ba thân nguyên thể mình
Bốn trí vốn tâm minh
Thân trí dung không ngại
Ứng vật mặc tùy hình…
(phẩm Cơ duyên)
3/ Thấy và sống trong tánh Không và tánh sáng
Người ta không thấy và không sống được trong bản tâm tánh Không và tánh sáng bởi vì bị che chướng bởi các phiền não của mình và bởi các tướng bên ngoài, do đó bị lạc vào sanh tử. Lục Tổ nói:
“Ông nay phải biết: Phật vì tất cả các người mê, họ nhận năm uẩn hòa hiệp làm tướng ngoại trần, rồi ham sống ghét chết, niệm niệm trôi lăn, chẳng biết là mộng huyễn hư giả, uổng chịu luân hồi, lấy Niết bàn thường lạc chuyển thành tướng khổ mà trọn ngày tìm kiếm.
Vì thế Phật thương xót nên chỉ bày Niết bàn chân lạc, trong sát na không có tướng sanh, trong sát na không có tướng diệt, lại không có sanh diệt nào để diệt, đây là tịch diệt hiện tiền. Đang khi hiện tiền cũng không có cái lượng hiện tiền mới gọi là thường lạc.
Cái lạc này không có người thọ cũng không có người không thọ, thế thì làm sao có tên một thể năm dụng? Huống gì lại nói Niết bàn cấm ngăn các pháp, làm cho vĩnh viễn chẳng sanh. Đó là báng Phật, nhạo Pháp”. (phẩm Cơ duyên)
Sống trong bản tâm tánh Không tánh giác thì biết năm uẩn, thế giới ngoại trần là mộng huyễn hư giả, nên chẳng bị trôi lăn trong sanh tử hư vọng.
Khi an trụ trong bản tâm tánh Không tánh sáng thì tất cả sanh tử đều “bình đẳng như mộng huyễn”, vì tất cả mọi hình tướng đều là sự hiện bóng như huyễn như mộng trên nền tảng tánh Không và tánh sáng:
Chỉ người vượt thức lượng
Thông đạt không lấy bỏ
Vì biết pháp năm uẩn
Và ngã trong năm uẩn.
Ngoài hiện các sắc tượng
Tất cả tướng âm thanh
Bình đẳng như mộng huyễn
Không khởi (cái) thấy phàm thánh
Không tạo (cái) thấy Niết bàn
Hai bên, ba thời dứt…
(phẩm Cơ duyên)
Khi an trụ trong tánh Không và tánh sáng thì tất cả pháp giới trở thành môi trường của tự do:
“Thiện tri thức! Tâm lượng rộng lớn khắp cả pháp giới, dùng bèn rõ rõ phân minh. Ứng dụng liền biết hết thảy, tất cả là một, một là tất cả, đến đi tự do, tâm thể không ngưng ngại, tức là Trí huệ Bát nhã”. (phẩm Trí huệ)
Niệm niệm an trụ trong tánh Không và tánh sáng đó là thực hành, đó là thường trực thấy tánh:
“Niệm niệm thường tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu tự hành, tự thành Phật đạo” (phẩm Ngồi thiền).
An trụ trong tánh Không và tánh sáng thì giải thoát ngay trong cuộc đời này, tự do ngay trong thế gian này. Vì tất cả mọi tướng xuất hiện đều “bình đẳng như mộng như huyễn”, đây là tự do, nên lập cũng được, không lập cũng được:
“Nếu ngộ tự tánh thì cũng chẳng lập Bồ đề Niết bàn, cũng chẳng lập giải thoát tri kiến. Không có một pháp có thể đắc mới có thể kiến lập muôn pháp. Nếu rõ ý này, cũng gọi là Phật thân, cũng gọi là Bồ đề Niết bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến.
Người thấy tánh thì lập cũng được, không lập cũng được, đến đi tự do, không ngưng không ngại, ứng dụng tùy làm, ứng lời tùy đáp, hiện khắp Hóa thân mà chẳng lìa tự tánh, tức là được tự tại thần thông, du hý tam muội. Ấy gọi là thấy tánh” (phẩm Đốn tiệm).
- Tag :
- Nguyễn Thế Đăng