Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Những Điều Đức Phật Không Dạy Trong Kinh Sách

07 Tháng Bảy 202215:41(Xem: 1996)
Những Điều Đức Phật Không Dạy Trong Kinh Sách
Những Điều Đức Phật Không Dạy Trong Kinh Sách

HT. Thích Thiện Huệ

Những Điều Đức Phật Không Dạy Trong Kinh Sách

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài. Mà Ngài dạy: hãy tự làm hòn đảo cho chính mình, tự cứu lấy mình, tự mình thực hành và lấy Giáo Pháp làm thầy.

Đạo Phật đến để tự mình thấy, chớ không phải ai nói gì cũng tin.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy:

Phật tử vào chùa phải khép nép, làm gì cũng sợ mắc lỗi, răm rắp nghe theo vị Sư nào nói, hay phục tùng một cách mê muội, thiếu trí tuệ. Mà Ngài dạy: người Phật tử ngoài có niềm tin, còn phải trau dồi trí tuệ.

Ngài dạy:

1. Chớ vội tin vào truyền thuyết.
2. Chớ vội tin nếu là truyền thống.
3. Chớ vội tin nếu được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.
4. Chớ vội tin nếu được ghi lại trong sách vỡ hay kinh điển.
5. Chớ vội tin nếu là lý luận siêu hình.
6. Chớ vội tin nếu phù hợp với lập trường của mình.
7. Chớ vội tin nếu phù hợp với định kiến của mình.
8. Chớ vội tin nếu điều đó căn cứ dữ liệu hời hợt.
9. Chớ vội tin nếu điều đó được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.

10. Chớ vội tin nếu điều đó được các nhà truyền giáođạo Sư tuyên thuyết.Nếu điều nào các bậc thiện chí dạy: việc nào bất thiện, việc nào đáng chê trách, bị người trí chỉ trích đưa đến bất hạnh, khổ đau thì hãy từ bỏ chúng (và ngược lại).

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Ngài có thể tha tội lỗi, ban ân huệ cho bất kỳ ai tin Ngài, hay trừng phạt những ai không tin Ngài. Mà Ngài dạy người làm thiện thì hưởng quả tốt đẹp, người làm ác thì chịu quả khổ đau. Vì đó chính là hành động của chúng tachúng ta phải chịu trách nhiệm với chính mình, chứ không thể cứ thoải mái làm việc xấu ác rồi cầu xin được tha thứ. Vì đó là quy luật tự nhiên, không chỉ dành riêng cho những ai tin Ngài, mà dành cả cho những ai không theo Ngài nữa.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Người Phật tử không được học Pháp, chia sẻ Pháp. Mà trái lại Ngài còn khuyến khích mọi người trau dồi trí tuệ bằng pháp học lẫn pháp hành để đẩy lùi mê tín dị đoantà kiếntham lamsân hậnngã mạnvô minh. Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy cầu an, cầu siêu cả. Mà Ngài chỉ dạy làm phước thiện, rồi chia phước cho những người đang sống (nhằm giúp họ biết tùy hỷ phước, giúp họ hiểu làm việc thiện là điều đúng đắn) và hồi hướng phước cho người đã mất (nhằm giúp họ biết nguồn gốc, công ơn người quá cố).

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phật tử vào chùa phải bố thícúng dườngcung kínhphục vụ Chư Tăng. Mà Ngài dạy tính ích kỷbỏn xẻn, bất kính, lười biếng là không tốt, cần diệt trừ. Dù bố thícúng dườngcung kínhphục vụ đó không nhất thiết chỉ dành cho Tăng, mà còn cho người khác. Vã lại xúc phạm người hiền trí, tức tấn công thành trì thiện phápđảo lộn trời đất. Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phụ nữ bị phân biệt, không có phước báu như đàn ông. Ví dụ không có kinh sách nào dạy khi đến tháng hành kinh, phụ nữ không được đi chùa, hay không được đứng trước tượng Phật. Mà Ngài dạy thân thể dù nam hay nữ, tất cả đều bất tịnh, được tạo bởi 32 uế trược như nhau. Ngài dạy Phụ nữ vẫn có thể được như nam giới, vẫn được học tập và thực hành trong giáo Pháp Đức Phật để có thể thực chứng bậc thánh nhân. Nhưng Ngài dạy có 5 điều khổ mà phụ nữ gánh chịu:

1. Khổ phải đến tháng hành kinh.
2. Khổ lúc trẻ về nhà chồng, không có người thân.
3. Khổ mang thai.
4. Khổ phải sanh con.
5. Khổ hầu hạ chồng.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Người cư sĩ tại gia (tức là không phải người xuất gia) không được đụng chạm vào hay học tập, nghiên cứu kinh điển Phật giáo. Mà Ngài dạy giáo Pháp không chỉ dành cho người xuất giamà cả người tại gia. Mặc khác người tại gia phải giữ giới như:

1. Không sát sinh.
2. Không trộm cắp.
3. Không tà dâm.
4. Không nói láo.
5. Không uống rượu và các chất say.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy cư sĩ tại gia không được làm giàu.

Mà Ngài dạy cư sĩ phải làm ăn chân chính nhằm nuôi sống bản thân và gia đình.

Ngài dạy có 5 loại nghề cư sĩ không nên làm:

1. Buôn bán vũ khí.
2. Buôn bán người và động vật.
3. Buôn bán thịt.
4. Buôn bán rượu.
5. Buôn bán thuốc độc.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Người tu phải vào rừng sống ẩn cư, không được gần cư sĩ để dạy bảo. Mà Ngài dạy người tu phải giữ gìn giới luật, biết thu thúc lục căn ở bất kỳ nơi đâu.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải hành khổ hạnh hay lợi dưỡng. Mà Ngài dạy trung đạo, cần thoát khỏi 2 cực đoan trên.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cúng tế, đốt vàng mã, coi ngày giờ, mở cửa mã, phong thủy, xem sao, xem hạn, bói toán, bói số, đoán mộng, tiên toán vận mệnh,...Mà Ngài dạy Phật tử không nên mê tín dị đoan, các vị tu hành không được sống tà mạng bằng hình thức trên.

Đặc biệt Ngài dạy: đâu là Khổ, đâu là nguồn gốc của Khổ, đâu là diệt Khổ và đâu là con đường đi đến diệt KhổĐức Phật dạy mọi thứ đều vô thường, thay đổi, cuộc sống là tạm bợ, không có gì chắc chắn, không nên tham luyếnchấp ngã.

"Tự mình, làm điều ác;
Tự mình làm nhiễm ô.
Tự mình không làm ác;
Tự mình làm thanh tịnh.
Tịnh, không tịnh tự mình;
Không ai thanh tịnh ai".
(Kinh pháp cú: 165).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1619)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1740)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1304)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 997)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1304)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1791)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1355)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1458)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1286)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2585)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1279)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1304)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1585)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1565)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1529)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1364)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2510)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1512)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1499)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1282)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1331)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1497)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1452)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1334)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1302)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1415)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2067)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1443)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1409)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1503)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1747)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1427)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1290)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1566)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1599)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2208)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1374)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1849)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1576)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1665)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1518)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1856)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1566)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1353)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1629)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1485)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1449)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1242)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1166)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1208)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1433)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1544)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1516)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 957)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1404)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1416)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1553)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1798)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1404)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant