Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vai Trò Của Tâm

27 Tháng Bảy 202216:09(Xem: 1851)
Vai Trò Của Tâm
Vai Trò Của Tâm

Đức Đạt Lai Lạt Ma
Thị Giới 


Vai Trò Của Tâm

Khi chúng ta quán sát giáo nghĩa Tứ diệu đế một cách kỹ lưỡng, điểm chủ yếu mà chúng ta thấy là sự quan trọng của tâm trong vai trò xác định kinh nghiệm của chúng ta về đau khổ và hạnh phúc.

Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau. Có cái khổ rất rõ ràng đối với mọi người, như sự đau đớn. Điều này tất cả chúng ta đều nhận là khổ. Và có mức độ thứ hai của khổ, mà trong ngôn ngữ thường ngày chúng ta định nghĩa là cảm thọ vui. Thực tế, những cảm thọ vui này là khổ vì chúng chứa đựng mầm mống của sự không thỏa mãn.

Mức độ thứ ba của khổ trong đạo Phật được gọi là không tự tại. Có thể nói cấp khổ thứ ba này khởi ra từ một nguyên do duy nhất là chúng ta là những chúng sanh chưa giác ngộ, chưa thoát khỏi sự tiêu cực trong cảm xúcý nghĩ và hành động. Đời sống của chúng ta gắn liền với những cảm xúc và hành động tiêu cực, đó là khổ và là nguyên nhân của sự không thỏa mãn.

Nếu nhìn sâu vào những loại khổ này, chúng ta thấy rằng tất cả những thứ khổ đó đều nương trên những trạng thái của tâm. Khi chúng ta nói về những vọng tưởng làm cho một người hành động theo hướng tiêu cựcchúng ta đang nói về những trạng thái của tâm, những trạng thái không kỷ luật của tâm. Vì vậy khi đề cập đến sự thật về nguồn gốc của khổ, đạo Phật đang nói về một tình trạng không kỷ luật, không chế ngự của tâm đưa đến một trạng thái không giác ngộ và đau khổTóm lại, nguồn gốc của khổ, nguyên nhân của khổ, và khổ có thể chỉ được hiểu trong lãnh vực trạng thái của tâm.

Giáo lý nhà Phật diễn tả sự chấm dứt của khổ như là trạng thái cao nhất của hạnh phúcHạnh phúc ở đây không nên hiểu như là những cảm nhận vui thú; chúng ta không nói đến sự vui của cảm giácChúng ta đang đề cập đến mức độ cao nhất của hạnh phúc, được ghi dấu bằng sự hoàn toàn tự do khỏi đau khổ và si mê. Đây là một tính chất của tâm, một trạng thái của tâm. Vì vậychúng ta cần hiểu về bản chất của tâm.

Khi chúng ta nói về con đường đưa đến sự chấm dứt khổ, chúng ta cũng đang nói về những mức độ khác nhau của tâm, những mức độ thể nghiệm khác nhau của tâm. Do đó để hiểu Bốn chân lý vi diệuchúng ta cần hiểu vai trò căn bản của tâm trong việc xác định kinh nghiệm của chúng ta về khổ và đau.

Tiến trình tạo ra sự hiện hữu không giác ngộ và đau khổ của tâm mà chúng ta kinh nghiệm được ngài Candrakirti (Nguyệt Xứng) đề cập trong tác phẩm Vào Trung luận: “Tình trạng không kỷ luật của tâm làm sinh khởi vọng tưởng dẫn con người vào hành động tiêu cực tạo ra môi trường tiêu cực và sống trong đó”.

Muốn hiểu tính chất của sự giải thoát khỏi đau khổ (Niết-bàn) mà đạo Phật đề cập, chúng ta có thể tìm hiểu qua tác phẩm Trung quán luận của ngài Nagarjuna (Long Thọ). Trong tác phẩm này, đôi khi trong một ý nghĩa nào đó, ngài đặt ngang hàng luân hồi với giác ngộ (Niết-bàn.) Điều ngài Long Thọ muốn nói trong việc đặt ngang hàng luân hồi và Niết-bàn là chúng ta không nên có cảm tưởng rằng có một bản chất chân thật hay sự tồn tại chân thật trong sự hiện hữu của chúng ta - giác ngộ hay vô minh.

Từ cái nhìn tánh khôngluân hồi và Niết-bàn đều không có thực thể nội tại hay sự hiện hữu nội tại. Chỗ khác nhau giữa trạng thái vô minh và trạng thái giác ngộ là tri kiến và kinh nghiệm về tánh khôngTri kiến và kinh nghiệm về tánh không của luân hồi là cái có thể được gọi là Niết-bàn. Và chúng ta thấy rằng chính trạng thái của tâm – một sự nhận hiểu về tánh không – làm cho luân hồi và Niết-bàn khác nhau.

Từ những tiền đề này, câu hỏi sau đây có thể được đặt ra: Phải chăng đạo Phật cho rằng mọi thứ đều là không, chúng chỉ là những phóng rọi của tâm?

Đó là một câu hỏi thách thức và được các vị thầy trả lời khác nhau. Trong một trường phái, các vị thầy cho rằng khi phân tích đến tận cùng, mọi sự việc bao gồm cả kinh nghiệm khổ và vui là rỗng không, chỉ là sự phóng rọi của tâm.

Nhưng cũng có trường phái không đồng ý với cái nhìn cực đoan đó. Trường phái này cho rằng mặc dù trong ý nghĩa nào đó người ta có thể cho rằng mọi thứ đều là sản phẩm của tâm, điều này không có nghĩa là mọi sự đều là không, ngoại trừ tâm. Các ngài cho rằng chúng ta cần có một mức độ khách quan để thấy rằng sự vật có sự hiện hữu. Mặc dù tâm giữ một vai trò trong việc tạo ra kinh nghiệm của chúng ta và thế giới, nhưng đồng thời vẫn có một thế giới khách quan của những sự vật và kinh nghiệm.

Có một điểm nữa mà tôi nghĩ chúng ta cần hiểu về ý nghĩa giải thoát trong đạo Phật hay Niết-bàn. Nagabuddhi, một học trò của ngài Nagarjuna, nêu lên rằng: “Giác ngộ hay giải thoát không phải là một món quà mà người nào đó có thể đem đến cho bạn, cũng không phải hạt mầm giác ngộ là sở hữu riêng của một người nào khác”. Có nghĩa là tiềm năng giác ngộ hiện hữu tự nhiên nơi tất cả chúng ta.

Nagabuddhi đặt câu hỏi: “Niết-bàn là gì, giác ngộ là gì, giải thoát là gì?”. Rồi ngài trả lời: “Giác ngộ chân thật không gì khác hơn là khi bản tánh của một người được hoàn toàn nhận ra”. Khi Nagabuddhi nói về bản tánh của một người, ngài đề cập đến điều mà Phật tử gọi là chân quang, ánh sáng tinh ròng, hay bản tánh chiếu rọi của tâm. Ngài nói khi cái này được biến thành hiện thực, đó là giác ngộ, đó là tánh Phật.

Khi chúng ta nói về giác ngộ, tánh Phật hay Niết-bàn, kết quả trong nỗ lực tâm linh của một người, chúng ta đang nói về một tính chất của tâm, một trạng thái của tâm. Tương tự, khi nói về những vọng tưởng và những tác nhân ngăn trở chúng ta nhận ra trạng thái giác ngộchúng ta đang nói về những trạng thái của tâm, những trạng thái hư vọng của tâm.

Đặc biệtchúng ta đang đề cập đến những trạng thái hư vọng của tâm đặt nền trên cách nhận thức méo mó về cái ngã của chúng ta và thế giớiPhương tiện duy nhất mà một người có thể dùng để giải trừ cái biết sai lầm đó, hay cách thấy méo mó về ngã hay thế giới, là rèn luyện cái thấy đúng về bản tánh chân thật của tâm, và bản tánh chân thật của ngã và thế giới.

Tóm lại, điểm cốt tủy trong giáo lý của Phật là một mặt, gắn liền trạng thái vô kỷ luật của tâm với một đời sống khổ đau và vô minh, và mặt khác, gắn liền trạng thái kỷ luật của tâm với một đời sống hạnh phúcgiác ngộ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12255)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11027)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10911)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13362)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11782)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13663)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11908)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11173)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12195)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12402)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20593)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12422)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12453)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11711)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11593)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22417)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13566)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29668)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11540)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16731)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 11997)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16833)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12070)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17921)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12635)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13157)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14754)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22619)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10581)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14044)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13867)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13714)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13864)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13936)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14832)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13850)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18410)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22794)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15396)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17319)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22414)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14262)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12576)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11157)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17765)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13208)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13099)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18789)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17178)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13499)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12913)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14696)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14655)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15874)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13512)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27433)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13227)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16717)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21387)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
(Xem: 18810)
Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant