Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đại Viên Cảnh Trí

01 Tháng Tám 202215:45(Xem: 2228)
Đại Viên Cảnh Trí
Đại Viên Cảnh Trí

Nguyễn Thế Đăng

tam vo lau hoc

Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán. 


Đại viên cảnh trí là gì? Là trí như tấm gương (cảnh) hoàn toàn (đại) tròn đầy, viên mãn (viên). Dịch gọn là trí như tấm gương tròn đầy.

Kinh Phật Địa nói “có năm pháp gồm trong Phật địa: 1/ Pháp giới thanh tịnh, 2/ Đại viên cảnh trí, 3/ Bình đẳng tánh trí, 4/ Diệu quan sát trí, 5/ Thành sở tác trí.
Kinh cũng nói pháp giới thanh tịnh có tất cả thế giới, tất cả sắc tướng, tất cả chúng sanh cùng với nghiệp của họ, nhưng pháp giới thanh tịnh không vì thế mà nhiễm ô. Như thế tất cả chúng sanh đều ở trong pháp giới thanh tịnh và trong đại viên cảnh trí nhưng không biết, không thể nghiệm được. Các Bồ tát ở trong mười địa Pháp thân thì chứng được từng phần, chỉ có chư Phật mới giác ngộ hoàn toàn.

“Lại nữa, Diệu Sanh! Đại viên cảnh trí là như gương tròn đầy, nương vào gương ấy mà các hình bóng ảnh hiện. Như thế, nương nơi gương trí Như Lai các hình bóng của sáu xứ, sáu cảnh, sáu thức ảnh hiện. Duy lấy gương tròn đầy bình đẳng, thế nên gương trí gọi là Đại viên cảnh trí”.
Theo hệ thống Duy thức hay Du già hành tông, đại viên cảnh trí là do thức nền tảng hay thức A lại da của chúng sanh chuyển hóa thành. Theo Kinh Nhập Lăng Già bản tánh của thức A lại da vốn thanh tịnh:
“Đại Huệ! Tạng thức A lại da Như Lai tạng này bản tánh thanh tịnh chỉ vì khách trần nhiễm ô mà hóa bất tịnh.”
Nói cách khác, bản tánh của thức A lại da là đại viên cảnh trí của Như Lai, và đại viên cảnh trí là Pháp thânBồ tát từ Sơ địa trở lên thực sự chuyển hóa hay tịnh hóa thức A lại da thành đại viên cảnh trí pháp thân nên được gọi là Pháp thân Bồ tát.
Chuyển hóa hay tịnh hóa thế nào? Tịnh hóa sự chấp thật “các hình bóng ảnh hiện của sáu xứ, sáu cảnh, sáu thức”. Càng tịnh hóa đến đâu tấm gương đại viên cảnh trí vốn trống không và sáng tỏ hiện ra đến đó.
Cũng với tấm gương đại viên cảnh trí này, chúng sanh thì lạc vào các hình bóng ảnh hiện và lạc vào sanh tử. Còn với Bồ tát, biết các bóng chỉ là ảnh hiện trên mặt gương nên nhìn thấy tấm gương vì bản tánh của bóng là gương: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc.”
“Như gương tròn sáng có người phước lớn treo lên chỗ rất cao, không bị lay động, có vô lượng chúng sanh qua lại, nơi đó họ quán sát đức tự thân thêm hay mất vì muốn giữ gìn đức, bỏ đi những thất đức.
Như thế, Như Lai treo đại viên cảnh trí ở pháp giới thanh tịnh không gián đoạn, không chút lay động, vì muốn khiến vô lượng vô số chúng sanh quán sát cái nhiễm cái tịnh, để giữ gìn cái tịnh, xả bỏ các nhiễm vậy.”
Tấm gương đại viên cảnh trí được treo ở pháp giới thanh tịnh, tức ở pháp giới thể tánh trí, không động, không gián đoạn, để chúng sanh và các Bồ tát trong mười địa soi thấy cái tịnh (Pháp thân) để giữ gìn và cái phiền não nhiễm ô để xả bỏ.
“Khiến cho  vô lượng vô số chúng sanh quán sát cái nhiễm để xả bỏ, cái tịnh để giữ gìn” nghĩa là tấm gương đại viên cảnh trí luôn luôn ở trước mắt mỗi người. Tấm gương ấy chính là bản tâm, khuôn mặt xưa nay của mỗi người, chỉ vì các nhiễm mà tạm thời bị che khuất.
“Lại như gương tròn đầy cực thiện sáng sạch, ánh sáng không vết dơ chiếu soi khắp. Như thế, Như Lai đại viên cảnh trí ở nơi Phật trí vĩnh viễn lìa dứt tất cả vết dơ phiền não chướng và sở tri chướng, cực thiện sáng sạch làm định y chỉ, do được nhiếp trì nên sáng soi thanh tịnh không vết dơ, làm sự lợi lạc cho tất cả chúng sanh, ánh sáng soi khắp.” 
Đại viên cảnh trí cực thiện sáng sạch, vĩnh viễn lìa dứt tất cả vết dơ phiền não chướng và sở tri chướng; đây là giải thoát cho mình, tự giác. Ánh sáng soi khắp làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh là làm lợi cho người, giác tha.
Thực hành đại viên cảnh trí là thiền định (Chỉ), thiền quán (Quán) và Chỉ - Quán đồng thời để thấy và an trụ trong tấm gương ấy. Đại viên cảnh trí vốn sạch, không vết dơ, đây là phương diện Định hay Chỉ, hay Tịch của tấm gương. Ánh sáng soi khắp là phương diện Quán hay Chiếu của tấm gương.An trụ trong tấm gương đại viên cảnh trí thì những vết dơ phiền não chướng và sở tri chướng dần dần được xóa bỏ, tiêu tan…

“Lại như gương tròn đầy làm chỗ nương duyên cho các bản chất, thảy thảy bóng hình tướng mạo sanh khởi. Cũng như thế Như Lai đại viên cảnh trí, trong tất cả thời làm chỗ nương cho các duyên nên thảy thảy bóng trí (trí ảnh) tướng mạo sanh khởi.”
Tấm gương đại viên cảnh trí không phải là không có bóng nào. Nó in tất cả bóng hình tướng mạo của ba cõi, nhưng tất cả chỉ là bóng trong tấm gương trí được nhìn bởi trí (trí ảnh). Với các bóng trí ấy, chúng sanh chấp là có thật bèn tạo ra sanh tử có thật. Bậc trí thì thấy chúng chỉ là các bóng trong mặt gương đại viên cảnh trívô tự tánhkhông thậtnhư huyễn như mộng, như có như không.
Thấy mọi hình tướng của thế gian là những bóng trong cùng một tấm gương, bóng không lìa gương, bóng chính là gương, đó là thấy đại viên cảnh tríQuán chiếu sâu vào dù chỉ một bóng trong gương, người ta sẽ tìm thấy bóng chính là tấm gương đại viên cảnh trí
“Như trên gương tròn đầy chẳng phải một hay nhiều bóng hình khởi hiện, nhưng trên gương không thật có các bóng hình, vì gương này không có động, không có tạo tác. Trên Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải một hay nhiều bóng hình khởi hiện. Nhưng trên đại viên cảnh trí không có các bóng hình, vì gương trí này không có động, không có tạo tác.”
Các bóng hình thật ra không có khởi sanh, khởi hiện, chúng là vô sanh, vô hiện, nghĩa là vô tướng. Vì sao thế? Vì tấm gương đại viên cảnh trí làm chỗ nương duyên cho các bóng hình, nhưng tấm gương ấy vốn vô duyênvô sanh và vô tướng nên các bóng cũng vô duyênvô sanh và vô tướng.
“Lại như gương tròn đầy cùng các bóng hình chẳng phải hợp, chẳng phải lìa, chẳng tụ tập, mà hiện các duyên kia. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, cùng các bóng hình, chẳng phải hợp chẳng phải lìa, chẳng tụ tập mà chẳng tan mất vậy.”
Các bóng hình chẳng thể in cứng cố định vào tấm gương nên nói là chẳng phải hợp, chẳng phải lìa, chẳng tụ tập mà chẳng tan mất. Chẳng tụ tập là vô tự tánh, chẳng tan mất mà có xuất hiện.
Thấy các bóng như có xuất hiện, nhưng không thật, như hoa đốm giữa hư không, như trăng trong nước, như sóng nắng mà tưởng là nước…tức là thấy tấm gương đại viên cảnh trí.
Cho nên, thiền định thiền quán thấy các hình bóng trong gương chẳng ra ngoài gương, xuất hiện trên nền tảng là tấm gương bèn thấy được tấm gương. 
“Lại như gương tròn đầy sáng khắp tất cả chỗ của mặt gương, làm chỗ nương duyên cho các bóng hình khởi hiện khắp. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, sáng soi chẳng dứt vô lượng các hạnh thiện, làm chỗ nương duyên cho các bóng trí khởi hiện khắp.
Nghĩa là các bóng hình trí của Thanh Văn thừa, các bóng hình trí của Độc Giác  thừa, các bóng hình trí của vô lượng Đại thừa. Vì muốn khiến cho các bậc Thanh Văn thừa nương vào Thanh Văn thừa mà lìa thoát, bậc Độc Giác do nương vào Độc Giác thừa mà lìa thoát, bậc Đại thừa nương vào vô lượng thừa mà lìa thoát.”
Tấm gương đại viên cảnh trí tròn đầy sáng khắp  tất cả chỗ của mặt gương làm chỗ nương duyên cho các bóng hình trí của các hạnh thiện, trí huệ và công đức của cả ba thừa khởi hiện và giữ gìn khiến cho các chúng sanh và các bậc thánh của ba thừa được lợi lạc
Tấm gương đại viên cảnh trí là nền tảng cho sự thực hành của nhân thừaThanh Văn thừaĐộc Giác thừa và Đại thừa và cũng là con đường cho cả bốn thừa ấy.
“Như trong gương tròn đầy có bóng lớn, đó là bóng đất lớn, núi lớn, cây lớn, dinh thự lớn mà gương này chẳng đồng đẳng với các số lượng kia. Trên Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, có các bóng trí từ Cực Hỷ địa đến Phật địa cùng với tất cả bóng trí các pháp thế gian và xuất thế gian, mà đại viên cảnh trí chẳng phải các phần lượng kia.”
Trong đại viên cảnh trí có đủ các pháp thế gian và xuất thế gian, có đủ sanh tử và Niết bàn. Tấm gương trí in bóng các địa từ Sơ địa đến Phật địa mà tấm gương ấy chẳng phải bị giới hạn trong phần lượng mỗi địa. Tất cả các địa đều nằm trong tấm gương nghĩa là tất cả các địa đều cùng một bản tánh là tấm gương. Do đó phần lượng Sơ địa, Nhị địa cũng là tấm gương mà phần lượng Thất địaBát địa cũng là tấm gương. Chính tấm gương đại viên cảnh trí giải quyết cho vấn đề Đốn và Tiệm trong một số tông phái Phật giáo.
Con đường từ địa này qua địa khác nằm trong tấm gương nên muốn tìm địa nào hãy tìm trong tấm gương.
“Lại như gương tròn đầy chẳng phải chỗ bóng hình của các chất chướng ngại khởi duyên. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải chỗ khởi duyên bóng trí cho các bạn xấu ác nhiếp người nghe tà pháp làm chướng ngại chúng sanh, vì đó chẳng phải là pháp khí vậy.”
Các chất chướng ngại là các chất làm ngăn trở tính chất tốt đẹp, sáng sạch, thông suốt của gương. Bản tánh của đại viên cảnh trí là “cực thiện, sáng sạch” nên chẳng chứa chấp các tà pháp chướng ngại. Thế nên mục đích của hành giả là đạt đến tấm gương cực thiện cực sáng sạch này, khi ấy con ngườithế giới phản chiếu vào trong gương cũng thành cực thiện, cực sáng sạch.
“Lại như gương tròn đầy chẳng phải chỗ bóng hình các chất tối tăm khởi duyên. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải chỗ bóng trí của chúng sanh ngu muội thích xấu ác khởi duyên, vì chẳng phải là pháp khí vậy.”
Tấm gương đại viên cảnh trí chẳng phải chỗ cho sự xấu ác khởi duyên, vì ánh sáng không khởi duyên cho các chất tối tăm. Ngược lại, vì tấm gương ấy cực thiện, cực sáng sạch, cho nên bất cứ ai làm những “hạnh thiện”, sáng tỏtrong sạch thì sẽ được tấm gương huân tập nhiếp giữ và do đó dần dần đi vào tấm gương.
“Lại như gương tròn đầy chẳng phải chỗ bóng hình các chất xa lạ (viễn chất) khởi duyên. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải  chỗ bóng trí của nghiệp bất tịnh chứa chấp của chúng sanh chẳng tin khởi duyên, vì chẳng phải là pháp khí vậy.”
Các chất xa lạ là những cái khác với bản tánh của gương trống không, sáng tỏ và diệu dụng phản ánh. Chúng là những hình tướng cứng đặc, che tối, đi ngược lại bản tánh của tấm gương. Chúng là các độc tham, sân, si, kiêu mạnnghi ngờ, đố kỵ… Thế nên loại chúng ra khỏi tâm thì đại viên cảnh trí thanh tịnh và sáng tỏ liền hiển hiện ngay trước mắt.
Ở trên là mười tính cách của đại viên cảnh trí theo Kinh Thập Địa. Đó cũng là mười cách tiếp cận với tấm gương đại viên cảnh trí. Mỗi cách tiếp cận ấy sẽ cho phép chúng ta thấy trực tiếp tấm gương sáng ấy, loại bỏ những phiền não chướng và sở tri chướngcho đến lúc bản tâm mình là đại viên cảnh trí của Như Lai
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30650)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21007)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20194)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19421)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24376)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30646)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15680)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27779)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19760)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15564)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23239)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23556)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17521)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15689)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21861)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37979)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22135)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23225)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21333)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28407)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32529)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25168)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34676)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22931)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27695)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31287)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13593)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25160)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27801)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22073)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20723)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22208)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27104)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24131)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21884)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14704)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23139)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24006)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21091)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14194)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19926)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22493)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14061)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28022)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22805)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28185)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10976)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28489)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31552)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26160)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14933)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28032)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7427)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25342)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20694)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21118)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12227)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11900)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12796)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26638)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant