Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đại Viên Cảnh Trí

01 Tháng Tám 202215:45(Xem: 1994)
Đại Viên Cảnh Trí
Đại Viên Cảnh Trí

Nguyễn Thế Đăng

tam vo lau hoc

Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán. 


Đại viên cảnh trí là gì? Là trí như tấm gương (cảnh) hoàn toàn (đại) tròn đầy, viên mãn (viên). Dịch gọn là trí như tấm gương tròn đầy.

Kinh Phật Địa nói “có năm pháp gồm trong Phật địa: 1/ Pháp giới thanh tịnh, 2/ Đại viên cảnh trí, 3/ Bình đẳng tánh trí, 4/ Diệu quan sát trí, 5/ Thành sở tác trí.
Kinh cũng nói pháp giới thanh tịnh có tất cả thế giới, tất cả sắc tướng, tất cả chúng sanh cùng với nghiệp của họ, nhưng pháp giới thanh tịnh không vì thế mà nhiễm ô. Như thế tất cả chúng sanh đều ở trong pháp giới thanh tịnh và trong đại viên cảnh trí nhưng không biết, không thể nghiệm được. Các Bồ tát ở trong mười địa Pháp thân thì chứng được từng phần, chỉ có chư Phật mới giác ngộ hoàn toàn.

“Lại nữa, Diệu Sanh! Đại viên cảnh trí là như gương tròn đầy, nương vào gương ấy mà các hình bóng ảnh hiện. Như thế, nương nơi gương trí Như Lai các hình bóng của sáu xứ, sáu cảnh, sáu thức ảnh hiện. Duy lấy gương tròn đầy bình đẳng, thế nên gương trí gọi là Đại viên cảnh trí”.
Theo hệ thống Duy thức hay Du già hành tông, đại viên cảnh trí là do thức nền tảng hay thức A lại da của chúng sanh chuyển hóa thành. Theo Kinh Nhập Lăng Già bản tánh của thức A lại da vốn thanh tịnh:
“Đại Huệ! Tạng thức A lại da Như Lai tạng này bản tánh thanh tịnh chỉ vì khách trần nhiễm ô mà hóa bất tịnh.”
Nói cách khác, bản tánh của thức A lại da là đại viên cảnh trí của Như Lai, và đại viên cảnh trí là Pháp thânBồ tát từ Sơ địa trở lên thực sự chuyển hóa hay tịnh hóa thức A lại da thành đại viên cảnh trí pháp thân nên được gọi là Pháp thân Bồ tát.
Chuyển hóa hay tịnh hóa thế nào? Tịnh hóa sự chấp thật “các hình bóng ảnh hiện của sáu xứ, sáu cảnh, sáu thức”. Càng tịnh hóa đến đâu tấm gương đại viên cảnh trí vốn trống không và sáng tỏ hiện ra đến đó.
Cũng với tấm gương đại viên cảnh trí này, chúng sanh thì lạc vào các hình bóng ảnh hiện và lạc vào sanh tử. Còn với Bồ tát, biết các bóng chỉ là ảnh hiện trên mặt gương nên nhìn thấy tấm gương vì bản tánh của bóng là gương: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc.”
“Như gương tròn sáng có người phước lớn treo lên chỗ rất cao, không bị lay động, có vô lượng chúng sanh qua lại, nơi đó họ quán sát đức tự thân thêm hay mất vì muốn giữ gìn đức, bỏ đi những thất đức.
Như thế, Như Lai treo đại viên cảnh trí ở pháp giới thanh tịnh không gián đoạn, không chút lay động, vì muốn khiến vô lượng vô số chúng sanh quán sát cái nhiễm cái tịnh, để giữ gìn cái tịnh, xả bỏ các nhiễm vậy.”
Tấm gương đại viên cảnh trí được treo ở pháp giới thanh tịnh, tức ở pháp giới thể tánh trí, không động, không gián đoạn, để chúng sanh và các Bồ tát trong mười địa soi thấy cái tịnh (Pháp thân) để giữ gìn và cái phiền não nhiễm ô để xả bỏ.
“Khiến cho  vô lượng vô số chúng sanh quán sát cái nhiễm để xả bỏ, cái tịnh để giữ gìn” nghĩa là tấm gương đại viên cảnh trí luôn luôn ở trước mắt mỗi người. Tấm gương ấy chính là bản tâm, khuôn mặt xưa nay của mỗi người, chỉ vì các nhiễm mà tạm thời bị che khuất.
“Lại như gương tròn đầy cực thiện sáng sạch, ánh sáng không vết dơ chiếu soi khắp. Như thế, Như Lai đại viên cảnh trí ở nơi Phật trí vĩnh viễn lìa dứt tất cả vết dơ phiền não chướng và sở tri chướng, cực thiện sáng sạch làm định y chỉ, do được nhiếp trì nên sáng soi thanh tịnh không vết dơ, làm sự lợi lạc cho tất cả chúng sanh, ánh sáng soi khắp.” 
Đại viên cảnh trí cực thiện sáng sạch, vĩnh viễn lìa dứt tất cả vết dơ phiền não chướng và sở tri chướng; đây là giải thoát cho mình, tự giác. Ánh sáng soi khắp làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh là làm lợi cho người, giác tha.
Thực hành đại viên cảnh trí là thiền định (Chỉ), thiền quán (Quán) và Chỉ - Quán đồng thời để thấy và an trụ trong tấm gương ấy. Đại viên cảnh trí vốn sạch, không vết dơ, đây là phương diện Định hay Chỉ, hay Tịch của tấm gương. Ánh sáng soi khắp là phương diện Quán hay Chiếu của tấm gương.An trụ trong tấm gương đại viên cảnh trí thì những vết dơ phiền não chướng và sở tri chướng dần dần được xóa bỏ, tiêu tan…

“Lại như gương tròn đầy làm chỗ nương duyên cho các bản chất, thảy thảy bóng hình tướng mạo sanh khởi. Cũng như thế Như Lai đại viên cảnh trí, trong tất cả thời làm chỗ nương cho các duyên nên thảy thảy bóng trí (trí ảnh) tướng mạo sanh khởi.”
Tấm gương đại viên cảnh trí không phải là không có bóng nào. Nó in tất cả bóng hình tướng mạo của ba cõi, nhưng tất cả chỉ là bóng trong tấm gương trí được nhìn bởi trí (trí ảnh). Với các bóng trí ấy, chúng sanh chấp là có thật bèn tạo ra sanh tử có thật. Bậc trí thì thấy chúng chỉ là các bóng trong mặt gương đại viên cảnh trívô tự tánhkhông thậtnhư huyễn như mộng, như có như không.
Thấy mọi hình tướng của thế gian là những bóng trong cùng một tấm gương, bóng không lìa gương, bóng chính là gương, đó là thấy đại viên cảnh tríQuán chiếu sâu vào dù chỉ một bóng trong gương, người ta sẽ tìm thấy bóng chính là tấm gương đại viên cảnh trí
“Như trên gương tròn đầy chẳng phải một hay nhiều bóng hình khởi hiện, nhưng trên gương không thật có các bóng hình, vì gương này không có động, không có tạo tác. Trên Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải một hay nhiều bóng hình khởi hiện. Nhưng trên đại viên cảnh trí không có các bóng hình, vì gương trí này không có động, không có tạo tác.”
Các bóng hình thật ra không có khởi sanh, khởi hiện, chúng là vô sanh, vô hiện, nghĩa là vô tướng. Vì sao thế? Vì tấm gương đại viên cảnh trí làm chỗ nương duyên cho các bóng hình, nhưng tấm gương ấy vốn vô duyênvô sanh và vô tướng nên các bóng cũng vô duyênvô sanh và vô tướng.
“Lại như gương tròn đầy cùng các bóng hình chẳng phải hợp, chẳng phải lìa, chẳng tụ tập, mà hiện các duyên kia. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, cùng các bóng hình, chẳng phải hợp chẳng phải lìa, chẳng tụ tập mà chẳng tan mất vậy.”
Các bóng hình chẳng thể in cứng cố định vào tấm gương nên nói là chẳng phải hợp, chẳng phải lìa, chẳng tụ tập mà chẳng tan mất. Chẳng tụ tập là vô tự tánh, chẳng tan mất mà có xuất hiện.
Thấy các bóng như có xuất hiện, nhưng không thật, như hoa đốm giữa hư không, như trăng trong nước, như sóng nắng mà tưởng là nước…tức là thấy tấm gương đại viên cảnh trí.
Cho nên, thiền định thiền quán thấy các hình bóng trong gương chẳng ra ngoài gương, xuất hiện trên nền tảng là tấm gương bèn thấy được tấm gương. 
“Lại như gương tròn đầy sáng khắp tất cả chỗ của mặt gương, làm chỗ nương duyên cho các bóng hình khởi hiện khắp. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, sáng soi chẳng dứt vô lượng các hạnh thiện, làm chỗ nương duyên cho các bóng trí khởi hiện khắp.
Nghĩa là các bóng hình trí của Thanh Văn thừa, các bóng hình trí của Độc Giác  thừa, các bóng hình trí của vô lượng Đại thừa. Vì muốn khiến cho các bậc Thanh Văn thừa nương vào Thanh Văn thừa mà lìa thoát, bậc Độc Giác do nương vào Độc Giác thừa mà lìa thoát, bậc Đại thừa nương vào vô lượng thừa mà lìa thoát.”
Tấm gương đại viên cảnh trí tròn đầy sáng khắp  tất cả chỗ của mặt gương làm chỗ nương duyên cho các bóng hình trí của các hạnh thiện, trí huệ và công đức của cả ba thừa khởi hiện và giữ gìn khiến cho các chúng sanh và các bậc thánh của ba thừa được lợi lạc
Tấm gương đại viên cảnh trí là nền tảng cho sự thực hành của nhân thừaThanh Văn thừaĐộc Giác thừa và Đại thừa và cũng là con đường cho cả bốn thừa ấy.
“Như trong gương tròn đầy có bóng lớn, đó là bóng đất lớn, núi lớn, cây lớn, dinh thự lớn mà gương này chẳng đồng đẳng với các số lượng kia. Trên Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, có các bóng trí từ Cực Hỷ địa đến Phật địa cùng với tất cả bóng trí các pháp thế gian và xuất thế gian, mà đại viên cảnh trí chẳng phải các phần lượng kia.”
Trong đại viên cảnh trí có đủ các pháp thế gian và xuất thế gian, có đủ sanh tử và Niết bàn. Tấm gương trí in bóng các địa từ Sơ địa đến Phật địa mà tấm gương ấy chẳng phải bị giới hạn trong phần lượng mỗi địa. Tất cả các địa đều nằm trong tấm gương nghĩa là tất cả các địa đều cùng một bản tánh là tấm gương. Do đó phần lượng Sơ địa, Nhị địa cũng là tấm gương mà phần lượng Thất địaBát địa cũng là tấm gương. Chính tấm gương đại viên cảnh trí giải quyết cho vấn đề Đốn và Tiệm trong một số tông phái Phật giáo.
Con đường từ địa này qua địa khác nằm trong tấm gương nên muốn tìm địa nào hãy tìm trong tấm gương.
“Lại như gương tròn đầy chẳng phải chỗ bóng hình của các chất chướng ngại khởi duyên. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải chỗ khởi duyên bóng trí cho các bạn xấu ác nhiếp người nghe tà pháp làm chướng ngại chúng sanh, vì đó chẳng phải là pháp khí vậy.”
Các chất chướng ngại là các chất làm ngăn trở tính chất tốt đẹp, sáng sạch, thông suốt của gương. Bản tánh của đại viên cảnh trí là “cực thiện, sáng sạch” nên chẳng chứa chấp các tà pháp chướng ngại. Thế nên mục đích của hành giả là đạt đến tấm gương cực thiện cực sáng sạch này, khi ấy con ngườithế giới phản chiếu vào trong gương cũng thành cực thiện, cực sáng sạch.
“Lại như gương tròn đầy chẳng phải chỗ bóng hình các chất tối tăm khởi duyên. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải chỗ bóng trí của chúng sanh ngu muội thích xấu ác khởi duyên, vì chẳng phải là pháp khí vậy.”
Tấm gương đại viên cảnh trí chẳng phải chỗ cho sự xấu ác khởi duyên, vì ánh sáng không khởi duyên cho các chất tối tăm. Ngược lại, vì tấm gương ấy cực thiện, cực sáng sạch, cho nên bất cứ ai làm những “hạnh thiện”, sáng tỏtrong sạch thì sẽ được tấm gương huân tập nhiếp giữ và do đó dần dần đi vào tấm gương.
“Lại như gương tròn đầy chẳng phải chỗ bóng hình các chất xa lạ (viễn chất) khởi duyên. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải  chỗ bóng trí của nghiệp bất tịnh chứa chấp của chúng sanh chẳng tin khởi duyên, vì chẳng phải là pháp khí vậy.”
Các chất xa lạ là những cái khác với bản tánh của gương trống không, sáng tỏ và diệu dụng phản ánh. Chúng là những hình tướng cứng đặc, che tối, đi ngược lại bản tánh của tấm gương. Chúng là các độc tham, sân, si, kiêu mạnnghi ngờ, đố kỵ… Thế nên loại chúng ra khỏi tâm thì đại viên cảnh trí thanh tịnh và sáng tỏ liền hiển hiện ngay trước mắt.
Ở trên là mười tính cách của đại viên cảnh trí theo Kinh Thập Địa. Đó cũng là mười cách tiếp cận với tấm gương đại viên cảnh trí. Mỗi cách tiếp cận ấy sẽ cho phép chúng ta thấy trực tiếp tấm gương sáng ấy, loại bỏ những phiền não chướng và sở tri chướngcho đến lúc bản tâm mình là đại viên cảnh trí của Như Lai
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3572)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 4929)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6516)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3893)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 3998)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5226)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3687)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4406)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3449)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3829)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4290)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5290)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3746)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3828)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3776)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4696)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4423)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4152)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3735)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4490)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4081)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 5964)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4502)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4855)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4082)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4732)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5573)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3538)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 3950)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4506)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5182)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3060)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4649)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4445)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4199)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4656)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4399)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4500)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7095)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5105)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4900)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4491)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5519)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5177)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4064)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5884)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4595)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4784)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5369)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5476)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5690)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4906)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4261)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4573)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4614)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5767)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3240)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5166)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2866)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4040)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant