Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đại Viên Cảnh Trí

01 Tháng Tám 202215:45(Xem: 1996)
Đại Viên Cảnh Trí
Đại Viên Cảnh Trí

Nguyễn Thế Đăng

tam vo lau hoc

Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán. 


Đại viên cảnh trí là gì? Là trí như tấm gương (cảnh) hoàn toàn (đại) tròn đầy, viên mãn (viên). Dịch gọn là trí như tấm gương tròn đầy.

Kinh Phật Địa nói “có năm pháp gồm trong Phật địa: 1/ Pháp giới thanh tịnh, 2/ Đại viên cảnh trí, 3/ Bình đẳng tánh trí, 4/ Diệu quan sát trí, 5/ Thành sở tác trí.
Kinh cũng nói pháp giới thanh tịnh có tất cả thế giới, tất cả sắc tướng, tất cả chúng sanh cùng với nghiệp của họ, nhưng pháp giới thanh tịnh không vì thế mà nhiễm ô. Như thế tất cả chúng sanh đều ở trong pháp giới thanh tịnh và trong đại viên cảnh trí nhưng không biết, không thể nghiệm được. Các Bồ tát ở trong mười địa Pháp thân thì chứng được từng phần, chỉ có chư Phật mới giác ngộ hoàn toàn.

“Lại nữa, Diệu Sanh! Đại viên cảnh trí là như gương tròn đầy, nương vào gương ấy mà các hình bóng ảnh hiện. Như thế, nương nơi gương trí Như Lai các hình bóng của sáu xứ, sáu cảnh, sáu thức ảnh hiện. Duy lấy gương tròn đầy bình đẳng, thế nên gương trí gọi là Đại viên cảnh trí”.
Theo hệ thống Duy thức hay Du già hành tông, đại viên cảnh trí là do thức nền tảng hay thức A lại da của chúng sanh chuyển hóa thành. Theo Kinh Nhập Lăng Già bản tánh của thức A lại da vốn thanh tịnh:
“Đại Huệ! Tạng thức A lại da Như Lai tạng này bản tánh thanh tịnh chỉ vì khách trần nhiễm ô mà hóa bất tịnh.”
Nói cách khác, bản tánh của thức A lại da là đại viên cảnh trí của Như Lai, và đại viên cảnh trí là Pháp thânBồ tát từ Sơ địa trở lên thực sự chuyển hóa hay tịnh hóa thức A lại da thành đại viên cảnh trí pháp thân nên được gọi là Pháp thân Bồ tát.
Chuyển hóa hay tịnh hóa thế nào? Tịnh hóa sự chấp thật “các hình bóng ảnh hiện của sáu xứ, sáu cảnh, sáu thức”. Càng tịnh hóa đến đâu tấm gương đại viên cảnh trí vốn trống không và sáng tỏ hiện ra đến đó.
Cũng với tấm gương đại viên cảnh trí này, chúng sanh thì lạc vào các hình bóng ảnh hiện và lạc vào sanh tử. Còn với Bồ tát, biết các bóng chỉ là ảnh hiện trên mặt gương nên nhìn thấy tấm gương vì bản tánh của bóng là gương: “Sắc tức là Không, Không tức là sắc.”
“Như gương tròn sáng có người phước lớn treo lên chỗ rất cao, không bị lay động, có vô lượng chúng sanh qua lại, nơi đó họ quán sát đức tự thân thêm hay mất vì muốn giữ gìn đức, bỏ đi những thất đức.
Như thế, Như Lai treo đại viên cảnh trí ở pháp giới thanh tịnh không gián đoạn, không chút lay động, vì muốn khiến vô lượng vô số chúng sanh quán sát cái nhiễm cái tịnh, để giữ gìn cái tịnh, xả bỏ các nhiễm vậy.”
Tấm gương đại viên cảnh trí được treo ở pháp giới thanh tịnh, tức ở pháp giới thể tánh trí, không động, không gián đoạn, để chúng sanh và các Bồ tát trong mười địa soi thấy cái tịnh (Pháp thân) để giữ gìn và cái phiền não nhiễm ô để xả bỏ.
“Khiến cho  vô lượng vô số chúng sanh quán sát cái nhiễm để xả bỏ, cái tịnh để giữ gìn” nghĩa là tấm gương đại viên cảnh trí luôn luôn ở trước mắt mỗi người. Tấm gương ấy chính là bản tâm, khuôn mặt xưa nay của mỗi người, chỉ vì các nhiễm mà tạm thời bị che khuất.
“Lại như gương tròn đầy cực thiện sáng sạch, ánh sáng không vết dơ chiếu soi khắp. Như thế, Như Lai đại viên cảnh trí ở nơi Phật trí vĩnh viễn lìa dứt tất cả vết dơ phiền não chướng và sở tri chướng, cực thiện sáng sạch làm định y chỉ, do được nhiếp trì nên sáng soi thanh tịnh không vết dơ, làm sự lợi lạc cho tất cả chúng sanh, ánh sáng soi khắp.” 
Đại viên cảnh trí cực thiện sáng sạch, vĩnh viễn lìa dứt tất cả vết dơ phiền não chướng và sở tri chướng; đây là giải thoát cho mình, tự giác. Ánh sáng soi khắp làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh là làm lợi cho người, giác tha.
Thực hành đại viên cảnh trí là thiền định (Chỉ), thiền quán (Quán) và Chỉ - Quán đồng thời để thấy và an trụ trong tấm gương ấy. Đại viên cảnh trí vốn sạch, không vết dơ, đây là phương diện Định hay Chỉ, hay Tịch của tấm gương. Ánh sáng soi khắp là phương diện Quán hay Chiếu của tấm gương.An trụ trong tấm gương đại viên cảnh trí thì những vết dơ phiền não chướng và sở tri chướng dần dần được xóa bỏ, tiêu tan…

“Lại như gương tròn đầy làm chỗ nương duyên cho các bản chất, thảy thảy bóng hình tướng mạo sanh khởi. Cũng như thế Như Lai đại viên cảnh trí, trong tất cả thời làm chỗ nương cho các duyên nên thảy thảy bóng trí (trí ảnh) tướng mạo sanh khởi.”
Tấm gương đại viên cảnh trí không phải là không có bóng nào. Nó in tất cả bóng hình tướng mạo của ba cõi, nhưng tất cả chỉ là bóng trong tấm gương trí được nhìn bởi trí (trí ảnh). Với các bóng trí ấy, chúng sanh chấp là có thật bèn tạo ra sanh tử có thật. Bậc trí thì thấy chúng chỉ là các bóng trong mặt gương đại viên cảnh trívô tự tánhkhông thậtnhư huyễn như mộng, như có như không.
Thấy mọi hình tướng của thế gian là những bóng trong cùng một tấm gương, bóng không lìa gương, bóng chính là gương, đó là thấy đại viên cảnh tríQuán chiếu sâu vào dù chỉ một bóng trong gương, người ta sẽ tìm thấy bóng chính là tấm gương đại viên cảnh trí
“Như trên gương tròn đầy chẳng phải một hay nhiều bóng hình khởi hiện, nhưng trên gương không thật có các bóng hình, vì gương này không có động, không có tạo tác. Trên Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải một hay nhiều bóng hình khởi hiện. Nhưng trên đại viên cảnh trí không có các bóng hình, vì gương trí này không có động, không có tạo tác.”
Các bóng hình thật ra không có khởi sanh, khởi hiện, chúng là vô sanh, vô hiện, nghĩa là vô tướng. Vì sao thế? Vì tấm gương đại viên cảnh trí làm chỗ nương duyên cho các bóng hình, nhưng tấm gương ấy vốn vô duyênvô sanh và vô tướng nên các bóng cũng vô duyênvô sanh và vô tướng.
“Lại như gương tròn đầy cùng các bóng hình chẳng phải hợp, chẳng phải lìa, chẳng tụ tập, mà hiện các duyên kia. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, cùng các bóng hình, chẳng phải hợp chẳng phải lìa, chẳng tụ tập mà chẳng tan mất vậy.”
Các bóng hình chẳng thể in cứng cố định vào tấm gương nên nói là chẳng phải hợp, chẳng phải lìa, chẳng tụ tập mà chẳng tan mất. Chẳng tụ tập là vô tự tánh, chẳng tan mất mà có xuất hiện.
Thấy các bóng như có xuất hiện, nhưng không thật, như hoa đốm giữa hư không, như trăng trong nước, như sóng nắng mà tưởng là nước…tức là thấy tấm gương đại viên cảnh trí.
Cho nên, thiền định thiền quán thấy các hình bóng trong gương chẳng ra ngoài gương, xuất hiện trên nền tảng là tấm gương bèn thấy được tấm gương. 
“Lại như gương tròn đầy sáng khắp tất cả chỗ của mặt gương, làm chỗ nương duyên cho các bóng hình khởi hiện khắp. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, sáng soi chẳng dứt vô lượng các hạnh thiện, làm chỗ nương duyên cho các bóng trí khởi hiện khắp.
Nghĩa là các bóng hình trí của Thanh Văn thừa, các bóng hình trí của Độc Giác  thừa, các bóng hình trí của vô lượng Đại thừa. Vì muốn khiến cho các bậc Thanh Văn thừa nương vào Thanh Văn thừa mà lìa thoát, bậc Độc Giác do nương vào Độc Giác thừa mà lìa thoát, bậc Đại thừa nương vào vô lượng thừa mà lìa thoát.”
Tấm gương đại viên cảnh trí tròn đầy sáng khắp  tất cả chỗ của mặt gương làm chỗ nương duyên cho các bóng hình trí của các hạnh thiện, trí huệ và công đức của cả ba thừa khởi hiện và giữ gìn khiến cho các chúng sanh và các bậc thánh của ba thừa được lợi lạc
Tấm gương đại viên cảnh trí là nền tảng cho sự thực hành của nhân thừaThanh Văn thừaĐộc Giác thừa và Đại thừa và cũng là con đường cho cả bốn thừa ấy.
“Như trong gương tròn đầy có bóng lớn, đó là bóng đất lớn, núi lớn, cây lớn, dinh thự lớn mà gương này chẳng đồng đẳng với các số lượng kia. Trên Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, có các bóng trí từ Cực Hỷ địa đến Phật địa cùng với tất cả bóng trí các pháp thế gian và xuất thế gian, mà đại viên cảnh trí chẳng phải các phần lượng kia.”
Trong đại viên cảnh trí có đủ các pháp thế gian và xuất thế gian, có đủ sanh tử và Niết bàn. Tấm gương trí in bóng các địa từ Sơ địa đến Phật địa mà tấm gương ấy chẳng phải bị giới hạn trong phần lượng mỗi địa. Tất cả các địa đều nằm trong tấm gương nghĩa là tất cả các địa đều cùng một bản tánh là tấm gương. Do đó phần lượng Sơ địa, Nhị địa cũng là tấm gương mà phần lượng Thất địaBát địa cũng là tấm gương. Chính tấm gương đại viên cảnh trí giải quyết cho vấn đề Đốn và Tiệm trong một số tông phái Phật giáo.
Con đường từ địa này qua địa khác nằm trong tấm gương nên muốn tìm địa nào hãy tìm trong tấm gương.
“Lại như gương tròn đầy chẳng phải chỗ bóng hình của các chất chướng ngại khởi duyên. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải chỗ khởi duyên bóng trí cho các bạn xấu ác nhiếp người nghe tà pháp làm chướng ngại chúng sanh, vì đó chẳng phải là pháp khí vậy.”
Các chất chướng ngại là các chất làm ngăn trở tính chất tốt đẹp, sáng sạch, thông suốt của gương. Bản tánh của đại viên cảnh trí là “cực thiện, sáng sạch” nên chẳng chứa chấp các tà pháp chướng ngại. Thế nên mục đích của hành giả là đạt đến tấm gương cực thiện cực sáng sạch này, khi ấy con ngườithế giới phản chiếu vào trong gương cũng thành cực thiện, cực sáng sạch.
“Lại như gương tròn đầy chẳng phải chỗ bóng hình các chất tối tăm khởi duyên. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải chỗ bóng trí của chúng sanh ngu muội thích xấu ác khởi duyên, vì chẳng phải là pháp khí vậy.”
Tấm gương đại viên cảnh trí chẳng phải chỗ cho sự xấu ác khởi duyên, vì ánh sáng không khởi duyên cho các chất tối tăm. Ngược lại, vì tấm gương ấy cực thiện, cực sáng sạch, cho nên bất cứ ai làm những “hạnh thiện”, sáng tỏtrong sạch thì sẽ được tấm gương huân tập nhiếp giữ và do đó dần dần đi vào tấm gương.
“Lại như gương tròn đầy chẳng phải chỗ bóng hình các chất xa lạ (viễn chất) khởi duyên. Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy, chẳng phải  chỗ bóng trí của nghiệp bất tịnh chứa chấp của chúng sanh chẳng tin khởi duyên, vì chẳng phải là pháp khí vậy.”
Các chất xa lạ là những cái khác với bản tánh của gương trống không, sáng tỏ và diệu dụng phản ánh. Chúng là những hình tướng cứng đặc, che tối, đi ngược lại bản tánh của tấm gương. Chúng là các độc tham, sân, si, kiêu mạnnghi ngờ, đố kỵ… Thế nên loại chúng ra khỏi tâm thì đại viên cảnh trí thanh tịnh và sáng tỏ liền hiển hiện ngay trước mắt.
Ở trên là mười tính cách của đại viên cảnh trí theo Kinh Thập Địa. Đó cũng là mười cách tiếp cận với tấm gương đại viên cảnh trí. Mỗi cách tiếp cận ấy sẽ cho phép chúng ta thấy trực tiếp tấm gương sáng ấy, loại bỏ những phiền não chướng và sở tri chướngcho đến lúc bản tâm mình là đại viên cảnh trí của Như Lai
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4487)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2679)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5098)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3741)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3790)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3148)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4027)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 4950)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3454)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6610)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3911)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3147)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3056)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2891)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5773)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4546)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3434)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2826)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3236)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4354)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5596)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6524)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3632)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4466)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4508)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3912)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3338)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4492)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 5932)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5757)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3567)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4599)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4391)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4446)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4196)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4516)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8096)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3862)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5643)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5092)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6721)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6103)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5872)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5657)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6136)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6658)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4876)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5458)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6273)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3687)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5299)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10345)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 5980)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9193)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6285)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5854)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7332)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7166)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5074)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 7941)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant