Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bình Đẳng Tánh Trí

17 Tháng Tám 202216:14(Xem: 2208)
Bình Đẳng Tánh Trí

Bình Đẳng Tánh Trí

Nguyễn Thế Đăng


hinh phat dep


Bình đẳng tánh trí
 được Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán, nói như sau:

Lại nữa, Diệu Sanh! Bình đẳng tánh trí là do mười tướng viên mãn mà thành tựu”.

Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.

Tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí là sự bình đẳng của tánh Không, ánh sáng và năng lực duyên hiện trên khắp mặt gương. Còn sự khác biệt, mâu thuẫn, nghịch chống lẫn nhau của các bóng trong gương là do cái tôi và cái của tôi (thức chấp ngã mạt na) tạo ra, thành một thế giới phân mảnh mà chúng ta thường gọi là sanh tử khổ đau.

 

Chứng đắc các tướng hỷ ái tăng thượng bình đẳng với pháp tánh là thành tựu viên mãn vậy”.

Hỷ là hoan hỷ, ái là thương yêutừ bi như đoạn sau sẽ nói. Pháp tánh là bản tánh của tất cả các pháp, bản tánh của tất cả mọi sự.

Kinh nghiệm tốt lành trên con đường như hoan hỷyêu thương bình đẳng với pháp tánh là càng ngày càng mở rộng và sâu thẳm để hòa tan vào pháp tánhSở dĩ như thế vì mọi kinh nghiệm tốt lành đều khởi lên từ pháp tánh, hiện hữu trong pháp tánh và hòa tan thành một vị với pháp tánh.

 

Chứng đắc tất cả lãnh thọ do duyên khởi bình đẳng với pháp tánh là thành tựu viên mãn vậy”.

Lãnh thọ là cái thứ bảy trong mười hai duyên sanhvô minh sinh hành, hành sinh thức, thức sinh danh sắcdanh sắc sinh sáu xứsáu xứ sinh xúc, xúc sinh thọ, thọ sinh ái, ái sinh thủ, thủ sinh hữuhữu sinh sanh, sanh sinh lão tử.

Tất cả duyên khởi bình đẳng với pháp tánh nghĩa là không còn những duyên khởi, chỉ còn pháp tánh. Đó là thành tựu viên mãn bình đẳng tánh trí.

 

Chứng đắc pháp tánh bình đẳng xa lìa các tướng khác nhau và tướng chẳng phải khác nhau là thành tựu viên mãn vậy”.

Xa lìa các tướng khác nhau và tướng chẳng phải khác nhau là trong pháp tánh không có cả hai tướng ấy. Không có tướng nào gọi là chứng đắc pháp tánh bình đẳng.

 

Đại từ giúp đỡ rộng lớn bình đẳng với pháp tánh là thành tựu viên mãn vậy”.

Tâm từ có ba thứ:1/ Từ duyên với chúng sanh, 2/ Từ duyên với pháp, và 3/ Từ không có nhân duyên (vô duyên từ). Ba tâm từ này sâu rộng đến mức bình đẳng với pháp tánh, khi ấy tâm từ thành tựu viên mãn. Nói cách khác, đại từ hòa nhập thành một với bình đẳng tánh trí, trải khắp, trùm khắp pháp giới.

 

Đại bi không đợi cầu xinbình đẳng với pháp tánh, là thành tựu viên mãn vậy”.

Đại bi bình đẳng với pháp tánh, ở các kinh khác gọi là “đồng thể đại bi”. Đại bi hòa nhập trọn vẹn với bản tánh của tất cả mọi sự, đó là thành tựu viên mãn.

 

Tùy theo các chúng sanh thích gì thì thị hiện bình đẳng với pháp tánh là thành tựu viên mãn vậy”.

Những bồ tát đã chứng Pháp thân ở cấp độ cao có thể thị hiện tùy theo sự mong muốn của chúng sanh để giáo hóa họ. Sự thị hiện này khởi từ pháp tánh, hiện hữu và làm việc trong pháp tánh, rồi lại nhập vào pháp tánh. Khi nào sự thị hiện này hoàn toàn bình đẳng làm một với pháp tánh thì được gọi là thành tựu viên mãn.

Tất cả chúng sanh kính nhận lời dạy thì bình đẳng với pháp tánh, là thành tựu viên mãn vậy”.

Không những chủ thể chỉ dạy thì bình đẳng với pháp tánh mà các đối tượng chúng sanh được chỉ dạy cũng bình đẳng với pháp tánh. Và vì cả hai chủ thể và đối tượng đều ở trong và là pháp tánh nên cả hai và hành động của cả hai người cho và người nhận - đều trở thành giải thoát.

 

Thế gian tịch tịnh đều đồng một vị bình đẳng với pháp tánh là thành tựu viên mãn vậy”.

Thế gian trong bản tánh của nó đều đồng một vị bình đẳng với pháp tánh và do đó thế gian là tịch lặng và thanh tịnh. Với hai câu ở trên, chúng ta thấy, người chỉ dạy pháp, người nhận lãnh pháp và môi trường cho sự việc này xảy ra, đều đồng một vị pháp tánh.

Như thế tất cả đều đồng một vị bình đẳng với pháp tánh, cho nên tất cả vốn là giải thoát. Thấy được tánh bình đẳng của mình, người, sự vật, và thế giới, đây là thấy được bình đẳng tánh trí.

 

Các pháp khổ vui thế gian một vị bình đẳng với pháp tánh là thành tựu viên mãn vậy”.

Các pháp khổ vui thế gian hiện hình là do nghiệp. Nghiệp thì có nghiệp của cá nhân (biệt nghiệp) và nghiệp chung của thế giới (cọng nghiệp).

Nhưng dù nghiệp khổ vui xấu tốt thế nào thì cũng khởi lên từ pháp tánh, hiện hữu trong pháp tánh và tiêu tan trong pháp tánhNghiệp khổ vui xấu tốt thế nào thì cũng cùng một bản tánh, một vị với pháp tánh.

Thấy được và sống được trong pháp tánh, đó là bình đẳng tánh trí, và nếu thành tựu viên mãn trí này người ta sẽ hoàn toàn thoát khỏi nghiệp riêng và nghiệp của thế giới.

 

Tu hành gieo trồng vô lượng công đức rốt ráo bình đẳng với pháp tánh là thành tựu viên mãn vậy”.

Gieo trồng vô lượng công đức là làm vô lượng nghiệp thiện. Dầu một nghiệp thiện, một công đức nhỏ cũng được sanh từ pháp tánh và được cất giữ trong pháp tánh. Như thế một nghiệp thiện, một công đức dù nhỏ, luôn luôn là một phần của pháp tánh. Thế nên, biết được điều này người ta gieo trồng công đức và biết tương ứng thâm nhập vào pháp tánh, khiến cho công đức hòa nhập và trở thành pháp tánh, tức là vừa tích tập công đức đồng thời với tích tập trí huệ. Đây là phước huệ song tu.

Cho đến khi gieo trồng vô lượng công đức rốt ráo bình đẳng với pháp tánh, nghĩa là toàn bộ pháp giới này trở thành vô lượng công đức vì đồng một vị với pháp tánh, người ta đã thành tựu viên mãn bình đẳng tánh trí.

 

Mười tướng viên mãn thành tựu là những thực hành của Bồ tát hạnh như trí bithị hiệngiáo hóa chúng sanh, gieo trồng công đức đều thành tựu viên mãnMười tướng ấy làm thành tựu Báo thân, cho nên bình đẳng tánh trí là Báo thân, trong khi đại viên cảnh trí là Pháp thân.

Trong các Kinh khác thường nói Viên mãn Báo thân Phật, chữ viên mãn đi liền với Báo thân. Thế nên khi Kinh nói, “Bình đẳng tánh trí là do mười tướng viên mãn mà thành tựu”, thì có thể thấy bình đẳng tánh trí chính là Báo thân Phật

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1270)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1411)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1056)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1157)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1177)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1573)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1535)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2670)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1688)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1255)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1125)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1174)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1289)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1229)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1824)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1550)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1774)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1703)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 1658)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 1954)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 1934)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2131)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1728)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1845)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1914)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1810)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 1969)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1807)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1734)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1827)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1766)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2026)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2132)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1835)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 1963)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1710)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1778)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2268)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2175)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3628)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2321)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 2924)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2353)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 1924)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1688)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3185)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2199)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2911)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2571)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 1923)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 2868)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2526)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3403)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3268)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4085)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3573)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4131)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2243)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3388)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant