Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Học Và Hành Đạo Như Thuyền Không Đáy

20 Tháng Tám 202216:28(Xem: 1821)
Học Và Hành Đạo Như Thuyền Không Đáy

Học Và Hành Đạo Như Thuyền Không Đáy

Thích Thanh Tâm

 hanh phuc



Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại Trường Trung cấp Phật học Đà Nẵng năm cuối, khóa VIII, với bộ môn Luận Đại thừa khởi tín. Duyên đã đủ thì quả hiển lộ; đây cũng là dịp tạm dừng bước chân học tập và hoằng hóa miền Bắc để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời và xem tâm tư thế hệ mai sau ưu tư những gì trong nếp sống thiền môn, trong nếp nghĩ tu tập hằng ngày. Từ đó, qua những lần gặp mặt ảo “online” và cả những lần thật mà ảo (khẩu trang che kín), tôi đều hướng những người học trò của mình, từ bài học triết lý “sinh khởi niềm tin Đại thừa” đến nếp sống thường nhật “buồn – vui nào ai hay” sau cánh cổng chùa.

Thầy và trò gặp nhau, thoáng cái đã chia tay. Trò tiếp tục đi lên trên lộ trình học tập và thăng tiến; Thầy chậm rãi đi xuống theo năm tháng tuổi đời hư hao. Nhiều gương mặt học trò “gần như mới” bởi dịch bệnh, bởi khẩu trang, bởi mắt mờ của Thầy giáo “có tí tuổi rồi”. Cũng lợi dụng điều đó, những người học trò ngồi sau, tranh thủ Giáo thọ không nhìn thấy, chợp mắt một chút, mơ mộng một tương lai xa vời. Mơ thì đẹp, mộng thì hay; thế mà, giật mình mở mắt, mộng mơ nào thấy, chỉ thấy giám thị gọi tên “xuống văn phòng uống nước”.

Khách sang sông hăng hái đi về phía trước, người đưa đò lầm lũi bên bến sông xưa. Những lần dõi mắt nhìn xa, xem học trò trưởng thành hay vấp ngã; những lời khuyên răn, những lời dặn bảo, không biết có giúp được các con trưởng thành không; hay, của Thầy trả lại cho Thầy, chẳng cần, chẳng nhớ những lời đó đâu. Nhớ chi cho lắm ưu sầu, quên đi cho nhẹ cái đầu Thầy ơi!”. Nghĩ cũng phải, trong xu thế “đời hóa” mà bàn chuyện “làm Phật” thì khó lắm thay! Ai chẳng tham câu danh lợi, ai chẳng thích thú vui thế gian. Ai chẳng muốn xênh xang áo mão, ai chẳng mê nhung lụa kiêu sa. Thôi thì, người ở lại, giữa núi đồi cô tịch, trong không gian vắng lặng, bên ánh đèn leo lét, cặm cụi soi từng con chữ, ngẫm từng câu Kinh; rồi buông mọi phan duyên để ngẫm nghĩ, để quán chiếu nội tâm và ngoại cảnh nhằm vạch ra hướng học đạo và hành đạo đích thực, cho mình và cho những ai thấy cần thiết.

Thầm nghĩ, Phật giáo và Dân tộc Việt Nam đã gắn kết và hòa chung nhịp sống từ thuở ban sơ, có thể nói rằng Việt Nam có bao nhiêu năm văn hiến thì có bấy nhiêu năm song hành cùng Phật giáo. Do đó, đã hình thành nên một nét văn hóa đặc thù mang sắc màu Phật giáo, khi quốc gia hưng thịnh thì Phật giáo hưng thịnh, khi quốc gia suy yếu thì Phật giáo cũng cùng với vận mệnh lênh đênh của đất nước. Cho nên, trong xu thế phát triển hiện nay của thế kỷ XXI, Phật giáo Việt Nam đang đứng trước vận hội mới, cơ hội và thách thức đan xen nhau. Vì thế, trong vận mệnh phát triển ấy, thế hệ chúng ta, hàng đệ tử tại gia và xuất gia của đức Thế Tôn, cần rèn luyện bản lãnh, trang bị chất liệu gì để thong dong lên đường học đạo và hoằng hóa?

“Trong những cộng nghiệp và biệt nghiệp ấy, dân tộc Việt Nam cũng đang trải qua những biến đổi trầm trọng, từ hình thái tổ chức xã hội cho đến định hướng tư duyPhật giáo Việt Nam cũng đã và đang chịu những thử thách lớn của thời đại, không chỉ xuất hiện những hình thái sinh hoạt biến đổi theo cơ cấu tổ chức của một xã hội tiêu thụ, mà chính trong tư duy cũng biểu hiện những giá trị lệch hướng, định hướng theo thị hiếu quần chúngthỏa mãn nhu cầu tri thức thấp kém, những giá trị thế tục phù phiếm.

Khi mà những người học Phật bị mê hoặc bởi các giá trị thế tụcdiễn giải giáo nghĩa theo kiến thức nhặt lượm từ những thành tựu vụn vặt trong xã hội tiêu thụchánh kiến mờ nhạt dần, và Chánh pháp được thay thế bằng tượng pháp; vàng thật được thay thế bằng vàng giả, như Đức Phật đã giải thích cho Tôn giả Đại Ca-diếp: Khi vàng giả xuất hiện trong thị trường tiêu thụ, vàng thật biến mất. Đây là quy luật cần được hiểu theo ý nghĩa kinh tế học. Do bản thân vàng giả không hàm chứa giá trị nội tại, người tiêu thụ dễ dàng phung phí. Từ đó, tạo ra ảo tưởng về một xã hội phồn vinh, mà nhất định nó sẽ dẫn đến sự sụp đổ. Cũng vậy, những giá trị phù phiếm của tượng pháp vẽ ra ấn tượng hư cấu về một thời kỳ hưng thịnh của Chánh phápđồng thời cũng hàm chứa tín hiệu cho sự suy tàn tất yếu.

Phật giáo Việt Nam, trong hiện tại đang chứng kiến hiện tượng trăm hoa đua nở, mà bất cứ ai, có trí hay không có trí, có học hay không học, có đạo hay vô đạo, đều có thể phát ngôn tự ý và tự gán cho đó là Phật ngôn mà không thể tìm thấy bất cứ đâu trong kho tàng Thánh điển; được diễn giải tùy tiện nhằm thỏa mãn thị hiếu vật dục thấp hèn. Như một dự ngôn đã báo trước bằng ẩn dụ: đem vàng đi đổi củi; mang giáo nghĩa giải thoát cao thượng đổi lấy những giá trị thế tục được cho là giá trị văn minh thời đại.”[1]

Do vậy, giữa thời đại mà nhiễu loạn thông tin đang là công cụ đắc lực cho các tham vọng quyền lựcđam mê tài sảnhấp dẫn tiêu thụ, thật khó mà phân biệt thật với giả, chánh tín với tà tín và cuồng tín; những giá trị hư cấu được phổ biến gây nên ảo giác về một xã hội phồn vinh; cũng vậy, Phật ngôn hư cấu tác thành vọng tưởng về sự hưng thịnh của Chánh pháp, và lịch sử quá khứ cũng như hiện tại đã và đang chứng kiến sự suy thoái đạo đức trong các chúng đệ tử Phật; chúng ta hãy học theo hạnh nguyện của Ngài Bồ Đề Đạt Ma lên đường học đạo và truyền giáo và được soi sáng bởi ánh sáng thâm huyền của công án  “chiếc dép Tổ sư” để thực hiện sứ mệnh độ sinh.

Hình ảnh Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma với đôi mắt, to và sâu thẳm như hư vô khiến người ta xao xuyến, khiếp sợ. Như nhà thơ Y Sa diễn tả: “Mắt sâu hút bóng thiên đàng. Một khung trời nhỏ, lá vàng chợt bay. Người ngồi giữa cuộc đổi thay. Nghe sông núi cạn phút giây vô thường.” Cho nên, văn học Trung Hoa dùng từ “bích nhãn hồ tăng” nghĩa là “nhà sư mắt biếc đất Hồ” để gọi Ngài. Và từ đó, Ngài bước chân vào huyền sử như Trúc Thiên, trong Linh thoại Bồ Đề Đạt Ma cảm thán:

“Từ Tung sơnsừng sững bên vách đá Thiếu Lâm, bóng Người ngả dài suốt lịch sử Đông Phương như một tượng trưng thuần túy của Đạo. Ngót mười lăm thế kỉ, lòng người còn nghe đồng vọng tiếng Người nói; chốn Già lam còn vang dội bước Người đi.

Đối với Người, sự thực là sự thực, không được trả giá. Trả giá với sự thực là kí kết với ma. Con người đi xuống quá rồi, thế đạo đang nghiêng ngửa giữa sắc tướngcần cấp thời chận đứng cái đà tuột dốc; cần vươn mình mở lấy con đường không đường, cần nhảy thẳng vào tâm điểm cuộc sống, của giác ngộ. Căn bịnh đã quá trầm trọng, cần bạo tay thọc thẳng mũi đao vào tròng ung thư. Trong tinh thần vô úy ấy Người đã thét giữa những con người bé nhỏ chúng ta chơn lí tối hậu: hoát nhiên vô thanh.”[2]

Thế nhưng, ngày nay, mấy ai ngẫm được cái triết lý thâm huyền ấy để làm tiêu đích học và hành đạo; người ta mãi bận tâm đến hình ảnh chiếc dép trên đôi vai Ngài, có người bảo “là Đạo pháp để lại, đạo pháp mang đi”. Người kia thì chỉ vào chân trần của Tổ sư nói: “Sắc là không, không là sắc”. Rồi hai vị nỗ lực viện dẫn kinh sách, biện bácbảo vệ chính kiến của mình, mà quên rằng: “Bất lập văn tựgiáo ngoại biệt truyềntrực chỉ nhân tâmkiến tính thành Phật” (不立文字,教外別傳, 直指人心, 見性 成佛), nghĩa là, phải hiểu thấu đáo một câu Kinh bằng cách đập vỡ cả kính lẫn ảnh, vượt qua mọi hình thái ý niệm, không phân biệt mê ngộ, không chú ý đến hiện tại hay sự vắng mặt của tâm tưởng, không bắt không bỏ hai đường thiện ác như Đại Ứng quốc sư đã diễn tả.

Như vậy, giữa những âm ba lao xao của xã hội, hãy ngẫm nghĩ công án “chiếc dép”, rồi đến sự im lặng sấm sét sau chín năm diện bích của Tổ Sư, chứ đam mê vào ngôn ngữ để kỳ thị thì biết bao giờ mới thấy sự thật. Sự lầm lẫn của chúng ta cũng giống như Vua Lương Vũ Đếthực hiện việc tô tượng, đúc chuông, xây chùa, chép kinh, học đạo và hành đạo mà không ngộ nổi những lời khai thị về yếu tính Phật pháp của Đạt Ma sư tổ.

Do đó, khi diện kiến chân dung bức họa Tổ sư chích lý quy Tây, chính đôi mắt sâu huyền kia nhìn thẳng vào tâm tư chúng sanh và nói: “Một chiếc Ta vừa đánh rơi”. Để từ đó, hãy học và hành đạo như chiếc thuyền không đáy, chuyên chở cuộc đời qua những ghềnh thác cheo leo để dựng xây hạnh phúc đích thực./.

Trung ẩn sơn, Thiệu Long tự, mùa an cư 2566

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2673)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6150)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3064)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3112)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3316)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3247)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3307)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4569)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2737)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5225)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3883)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3850)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3213)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4151)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5058)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3523)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6754)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3971)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3227)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3110)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2972)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5876)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4643)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3507)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2905)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3317)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4437)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5734)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6648)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3733)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4542)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4620)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3979)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3413)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4640)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6070)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5851)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3645)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4696)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4465)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4544)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4275)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4602)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8231)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3933)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5730)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5219)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6863)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6186)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6002)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5816)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6309)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6800)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4979)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5579)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6402)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3795)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5428)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10479)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6082)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant