Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (Phần I)

30 Tháng Tám 202212:18(Xem: 1280)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (Phần I)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối

walk-455903_1280-780x470

Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược. Hướng khác lưu chảy về Niết-bàn (Nirvāṇa), đây chỉ cho lớp người vượt thoát sinh tử, điều chỉnh ngã thức, chế ngự cảm xúc vị kỷ thô lậu.

Hướng chảy đầu tiên kiến trúc thành một xã hội thế tục, số đông nhận phận theo một thứ định mệnh dẫn dắt khôn lường bởi lòng ước muốn của tham, sân, si. Đôi khi chính lòng ham muốn thiếu kiểm soát đã tạo ra giông bão bất ngờ, hất tung cả số phận. Hoặc nói cách khác, một xã hội thế tục hấp dẫn với vỏ bọc bên ngoài diễm tuyệt, thật sự bên trong khổ đau, cạm bẫy, bất an… luôn rình rập con người. Dòng chảy thứ hai xây dựng một xã hội thu nhỏ, núp bóng trong rừng sâu, ẩn xa sau cổng viện, những con người mang chí nguyện theo đuổi đời sống tâm linh, giữ trọn lối sống nghèo khó và khiết tịnh. Nhưng trên con đường tìm đạo, với số ít tự mình giải thoát, vài cá nhân ưu việt, còn lại là những tâm hồn yếu đuối, bị chế ngự bởi thứ tội lỗi di truyền nguyên thủy, không thể diệt trừ bằng nổ lực tinh cần, dễ sa ngã trên con đường đạo. Để giúp họ trụ vững trên lộ trình tiến tu, những giới điều nghiêm khắc được quy chế. Tuy nhiên, giữ giớiphạm giớilẽ thường tình đối với những người ngã thức còn non nớt, bản lĩnh nội tại suy nhược, và đối với kẻ té ngã không đủ khả năng đứng dậy thì sự trợ lực của người khác là cần thiết, tức đức Thích Tôn phương tiện khai phóng một con đường, khi phạm tội cho họ sám hối, cho họ cơ hội làm lại cuộc đời.

Mới đây có một vị thầy hỏi chúng tôi, phạm bốn tội ba-la-di có thể sám hối được không? Vì thầy này đọc một bài viết trên mạng điện toán, nội dung gợi mở phạm bốn tội ba-la-di có thể sám hối được. Tôi xem qua bài viết, nhận thấy tác giả luận chứng rất tỉ mỉ nhưng có chỗ chưa rõ hoặc hiểu nhầm. Chúng tôi xin phép nương ý chính của tác giả, trình bày lại cho sáng tỏ vấn đề. Thật sự giáo pháp nhà Phật u huyền, không ai tự đắc chính mình thấu hiểu tận tường. Kiến thứctu chứng là hai phạm trù, người viết chưa hẳn là người giữ giới nghiêm mật, viết để cùng nhau học hỏi, viết để cùng nhau tu chỉnh lại mình.

I

1. Tội ba-la-di:

Tổng số điều khoản mà Phật quy chế cho chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni thọ trì trong các bộ luật ghi chép không giống nhau. Luật Tứ phần ghi, giới của tỳ-kheo là 250 giới, tỳ-kheo-ni 348 giới. Luật Ngũ phần: tỳ-kheo 251, tỳ-kheo-ni (theo Ngũ phần tỳ-kheo-ni giới bổn, T22n1423) 373, theo Quảng luật (T22n1421) 370. Luật Pāli: tỳ-kheo 227 giới, tỳ-kheo-ni 311 giới v.v… Trong đó nhóm tội ba-la-di là tội nặng nhất.

Về ngữ nghĩa từ “bà-la-di” (波羅夷, Skt. Pārājikā) phần lớn nhận định là nguồn gốc không rõ ràng. Định nghĩa theo luật Pāli, Vin. iii, 28: “Như người bị chặt đầu, không thể sống bằng cách ráp nối lại với thân.” Luật Tứ phần định nghĩa như luật Pāli. Căn bản Hữu bộ: Ba-la-thị-ca (波羅市迦), là tội cực trọng, là cái ác ghê gớm, cần phải hiềm hận… Nếu bí-sô vừa phạm liền chẳng phải sa-môn, chẳng phải con Thích-ca, mất tánh bí-sô, trái với tánh của Niết-bàn…, bị kẻ khác thắng, không thể cứu vớt được, như cây đa-la bị chặt ngọn không thể sống lại được, không thể phát triển.[1]

Hầu như luật bộ phái định nghĩa dài hay ngắn, ít hay nhiều đều giải thích gần giống nhau. Nhưng ý nghĩa dễ hiểu nhất của từ ba-la-di là cụm từ mà Nghĩa Tịnh dịch trong luật Căn bản: “Bị kẻ khác thắng (bị tha sở thắng 被他所勝)”, tức bị phiền não đánh bại, nghĩa này chúng ta thấy khá phổ biến trong các dịch phẩm của Huyền Trang như Bồ-tát giới bổn,[2] Tập dị môn túc luận[3] v.v… Ông dịch là “Tha thắng xứ 他勝處”, “Tha thắng tội 他勝罪”. Vậy tội ba-la-di của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni gồm những tội gì?

Về tỳ-kheo có 4 tội ba-la-di: 1. Học xứ bất tịnh hạnh (không được dâm dục); 2. Học xứ không cho mà lấy; 3. Học xứ đoạn nhân mạng; 4. Học xứ vọng ngữ nói mình đắc pháp thượng nhân.

Tỳ-kheo-ni có 8: Bốn học xứ đầu giống giới tỳ-kheo; học xứ thứ 5: xúc chạm thân nam; học xứ thứ 6: tám việc;[4] học xứ thứ 7: che giấu trọng tội; học xứ thứ 8: tùy thuận theo tỳ-kheo đã bị Tăng cử tội.

2. Hình thức phạm tội:

Trước khi chúng ta luận bàn đến chuyện phạm tội ba-la-di có thể sám hối được hay không, nghĩa là hiểu theo kiểu dân gian là được tha bổng, khoan hồng, hay giảm án… thì phải tìm hiểu yếu tố pháp lý, tình tiết vụ án, xem người phạm tội và mức độ “gây án” như thế nào.

(a). Tội đầu tiên, phạm hạnh bất tịnh:

Câu chuyện thứ nhất, tỳ-kheo Sudinna sau khi xuất gia, mẹ ruột muốn có cháu nối dõi tông đường, bèn ép ông về nhà hành hạnh bất tịnh với người vợ cũ. Lúc này Phật chưa chế giới. Sau đó Phật chế: Tỳ-kheo nào hành pháp dâm dục sẽ phạm ba-la-di.

Câu chuyện thứ hai là tỳ-kheo Bạt-xà Tử (theo luật Pāli nói là số đông các tỳ-kheo người Vajji ở Vesālī).[5] Tỳ-kheo này chán đời sống tịnh hạnh, trở về nhà cùng vợ cũ làm việc bất tịnh. Từ việc này, Phật chế: Tỳ-kheo nào không kham nổi đời sống tỳ-kheo (dubbalyaṃ anāvikatvā), không xả giới mà hành pháp dâm dục, phạm ba-la-di.

Sau khi Phật chế giới như vậy, có tỳ-kheo sống trong rừng, tự nghĩ là Phật cấm hành dâm với người nữ chứ không cấm với súc vật nên đã hành dâm với con vượn cái. Từ nguyên nhân này khiến Phật mới quy chế thêm, cấm quan hệ với người và cả súc sinh. Giới này đến đây đã thành định chế.

Nhưng con người yếu đuối vẫn là kẻ chiến bại trước phiền nãodục vọng, ngoại trừ bậc Thánh trí ra khỏi càn khôn. Câu chuyện cuối cùng một thời xa xưa đã làm kinh động trong cộng đồng Tăng lữ, gây ra sự tranh biện giữa các bộ phái, cũng liên quan đến vấn đề sám hối tội ba-la-di, và từ đây khiến cho các học giả Phật giáo Việt Nam gần đây nhầm lẫn là ba-la-di được sám hối toàn diện. Đó là sự kiện tỳ-kheo Nandi. Thầy này nổi tiếng tu tập thiền định, đi, đứng, nằm, ngồi đều trong trạng thái thiền. Luật kể, một hôm Nandi ngồi thiền trong rừng An-hoàn (andhavana), vì năng lực thiền định của thế tục không thể chiến thắng lửa dục, vừa xả thiền, bị thiên thần ma hóa làm cô gái đẹp dẫn dụ ông đến xác một con ngựa cái chết trong rừng, rồi cô ấy ẩn vào thân con ngựa, lúc này bị lửa dục thiêu đốt Nandi liền hành dâm nơi xác con ngựa.[6] Phật biết Nandi hối hận ăn năn và có tâm tha thiết không muốn bỏ đạo, Ngài mới dạy Tăng yết-ma trao pháp ba-la-di cho học pháp hành của sa-di (dữ học sa-di hành pháp 與學沙彌行法T23n1435_p0003a21║).[7] Đây là một hình thức khai mở cho phép sám hối. Chúng tôi sẽ bàn tiếp ở mục sau.

Luật Tăng-kỳ chép, giới ba-la-di đầu tiên được Phật chế tại thành Vaiśāli, sau giờ cơm trưa, vào ngày 12 nửa tháng thứ năm, mùa đông, sau 5 năm Phật thành đạo.[8]

(b) Tội thứ hai, không cho mà lấy:

Tỳ-kheo Dhaniya tìm cây để làm thất, tự ý chặt một số cây quý của nhà vua trồng, những loại cây này triều đình lưu trữ để tu sửa thành (devagahadārūni nagarapaṭisaṅkhārikāni). Ông là người đầu tiên quy phạm khiến Phật chế giới: tỳ-kheo nào lấy vật không cho, trị giá 5 tiền, hay trên 5 tiền sẽ phạm ba-la-di.[9]

(c) Tội thứ ba, đoạn nhân mạng:

Do các tỳ-kheo tu quán bất tịnh, khởi niệm nhờm tởm thân thể, bèn nhờ tỳ-kheo khác giết mình. Đức Phật mới chế giới, tỳ-kheo không được tự sát, hoặc chính mình giết người khác, hay sai bảo người giết… đều phạm tội ba-la-di.

(d). Tội thứ tư, vọng ngữ nói mình đắc pháp thượng nhân:

Nguyên nhân một thuở nọ, gặp năm mất mùa đói kém, khất thực khó khăn, một số tỳ-kheo bàn nhau tự bịa đặt khen ngợi lẫn nhau cho cư sĩ nghe, nói rằng tỳ-kheo này chứng đắc pháp, tỳ-kheo kia chứng đắc pháp, là đắc pháp của bậc thượng nhân, chỉ cho thiền, giải thoát, chánh định, chánh thọ, tri kiến… (Pāli, Vin. i. 91: uttaramanusadhammo nāma jhānaṃ vimokkho samādhi samāpatti ñāṇadassanaṃ…), mục đích để Phật tử cúng dường. Từ lý do này khiến đức Phật chế giới, tỳ-kheo nào thật không sở tri mà tự xưng tôi chứng đắc pháp thượng nhân… kẻ ấy phạm ba-la-di.

(Còn tiếp)

Mùa an cư Phật lịch 2566.
Cittacakkhu


[1] Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da 1, T23, no. 1442, p. 630c6.

[2] 菩薩戒本1, T24, no. 1501, p. 1110b12.

[3] 阿毘達磨集異門足論 1, T26, no. 1536, p. 370a24.

[4] Tứ phần 22, p. 716a24: Tỳ-kheo-ni với tâm nhiễm ô biết người nam có tâm nhiễm ô, bằng lòng để cho (1) nắm tay, (2) nắm áo, (3) vào chỗ vắng, (4) cùng đứng, (5) cùng nói, (6) cùng đi, (7) thân dựa nhau, (8) hẹn nhau, là phạm ba-la-di.

[5] Vin. iii. 23, sambahulā vesālikā vajjiputtakā bhikkhū.

[6] Cf. Thập tụng 1, T23n1435, p. 2c29; Tứ phần 34, T22n1428, p. 809a8; Ngũ phần 28, T22n2421, tr. 182c10; Tăng-kì 26, T22n1425, p. 441a28.

[7] Thập tụng 1, p. 3b01, 56, p. 418b29, 57, p. 425b15.

[8] 摩訶僧祇律 2, p. 238a22.

[9] Tứ phần 1, p. 573b15; Ngũ phần 1, p. 6a7 v.v…

Xem:
– Phần II
– Phần III

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1647)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1578)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1497)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1077)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1467)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1414)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1333)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1381)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1711)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1971)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1436)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1095)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2027)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1471)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1554)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1390)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2909)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1378)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1410)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1726)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1681)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1635)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1479)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2645)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1604)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1615)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1407)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1426)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1616)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1565)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1446)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1432)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1522)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2203)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1549)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1511)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1624)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1843)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1534)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1414)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1671)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1424)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1702)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2382)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1471)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1959)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1681)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1761)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1620)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1955)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1685)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1441)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1730)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1583)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1549)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1338)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1254)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1297)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1530)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant