Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (Phần I)

30 Tháng Tám 202212:18(Xem: 1279)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (Phần I)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối

walk-455903_1280-780x470

Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược. Hướng khác lưu chảy về Niết-bàn (Nirvāṇa), đây chỉ cho lớp người vượt thoát sinh tử, điều chỉnh ngã thức, chế ngự cảm xúc vị kỷ thô lậu.

Hướng chảy đầu tiên kiến trúc thành một xã hội thế tục, số đông nhận phận theo một thứ định mệnh dẫn dắt khôn lường bởi lòng ước muốn của tham, sân, si. Đôi khi chính lòng ham muốn thiếu kiểm soát đã tạo ra giông bão bất ngờ, hất tung cả số phận. Hoặc nói cách khác, một xã hội thế tục hấp dẫn với vỏ bọc bên ngoài diễm tuyệt, thật sự bên trong khổ đau, cạm bẫy, bất an… luôn rình rập con người. Dòng chảy thứ hai xây dựng một xã hội thu nhỏ, núp bóng trong rừng sâu, ẩn xa sau cổng viện, những con người mang chí nguyện theo đuổi đời sống tâm linh, giữ trọn lối sống nghèo khó và khiết tịnh. Nhưng trên con đường tìm đạo, với số ít tự mình giải thoát, vài cá nhân ưu việt, còn lại là những tâm hồn yếu đuối, bị chế ngự bởi thứ tội lỗi di truyền nguyên thủy, không thể diệt trừ bằng nổ lực tinh cần, dễ sa ngã trên con đường đạo. Để giúp họ trụ vững trên lộ trình tiến tu, những giới điều nghiêm khắc được quy chế. Tuy nhiên, giữ giớiphạm giớilẽ thường tình đối với những người ngã thức còn non nớt, bản lĩnh nội tại suy nhược, và đối với kẻ té ngã không đủ khả năng đứng dậy thì sự trợ lực của người khác là cần thiết, tức đức Thích Tôn phương tiện khai phóng một con đường, khi phạm tội cho họ sám hối, cho họ cơ hội làm lại cuộc đời.

Mới đây có một vị thầy hỏi chúng tôi, phạm bốn tội ba-la-di có thể sám hối được không? Vì thầy này đọc một bài viết trên mạng điện toán, nội dung gợi mở phạm bốn tội ba-la-di có thể sám hối được. Tôi xem qua bài viết, nhận thấy tác giả luận chứng rất tỉ mỉ nhưng có chỗ chưa rõ hoặc hiểu nhầm. Chúng tôi xin phép nương ý chính của tác giả, trình bày lại cho sáng tỏ vấn đề. Thật sự giáo pháp nhà Phật u huyền, không ai tự đắc chính mình thấu hiểu tận tường. Kiến thứctu chứng là hai phạm trù, người viết chưa hẳn là người giữ giới nghiêm mật, viết để cùng nhau học hỏi, viết để cùng nhau tu chỉnh lại mình.

I

1. Tội ba-la-di:

Tổng số điều khoản mà Phật quy chế cho chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni thọ trì trong các bộ luật ghi chép không giống nhau. Luật Tứ phần ghi, giới của tỳ-kheo là 250 giới, tỳ-kheo-ni 348 giới. Luật Ngũ phần: tỳ-kheo 251, tỳ-kheo-ni (theo Ngũ phần tỳ-kheo-ni giới bổn, T22n1423) 373, theo Quảng luật (T22n1421) 370. Luật Pāli: tỳ-kheo 227 giới, tỳ-kheo-ni 311 giới v.v… Trong đó nhóm tội ba-la-di là tội nặng nhất.

Về ngữ nghĩa từ “bà-la-di” (波羅夷, Skt. Pārājikā) phần lớn nhận định là nguồn gốc không rõ ràng. Định nghĩa theo luật Pāli, Vin. iii, 28: “Như người bị chặt đầu, không thể sống bằng cách ráp nối lại với thân.” Luật Tứ phần định nghĩa như luật Pāli. Căn bản Hữu bộ: Ba-la-thị-ca (波羅市迦), là tội cực trọng, là cái ác ghê gớm, cần phải hiềm hận… Nếu bí-sô vừa phạm liền chẳng phải sa-môn, chẳng phải con Thích-ca, mất tánh bí-sô, trái với tánh của Niết-bàn…, bị kẻ khác thắng, không thể cứu vớt được, như cây đa-la bị chặt ngọn không thể sống lại được, không thể phát triển.[1]

Hầu như luật bộ phái định nghĩa dài hay ngắn, ít hay nhiều đều giải thích gần giống nhau. Nhưng ý nghĩa dễ hiểu nhất của từ ba-la-di là cụm từ mà Nghĩa Tịnh dịch trong luật Căn bản: “Bị kẻ khác thắng (bị tha sở thắng 被他所勝)”, tức bị phiền não đánh bại, nghĩa này chúng ta thấy khá phổ biến trong các dịch phẩm của Huyền Trang như Bồ-tát giới bổn,[2] Tập dị môn túc luận[3] v.v… Ông dịch là “Tha thắng xứ 他勝處”, “Tha thắng tội 他勝罪”. Vậy tội ba-la-di của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni gồm những tội gì?

Về tỳ-kheo có 4 tội ba-la-di: 1. Học xứ bất tịnh hạnh (không được dâm dục); 2. Học xứ không cho mà lấy; 3. Học xứ đoạn nhân mạng; 4. Học xứ vọng ngữ nói mình đắc pháp thượng nhân.

Tỳ-kheo-ni có 8: Bốn học xứ đầu giống giới tỳ-kheo; học xứ thứ 5: xúc chạm thân nam; học xứ thứ 6: tám việc;[4] học xứ thứ 7: che giấu trọng tội; học xứ thứ 8: tùy thuận theo tỳ-kheo đã bị Tăng cử tội.

2. Hình thức phạm tội:

Trước khi chúng ta luận bàn đến chuyện phạm tội ba-la-di có thể sám hối được hay không, nghĩa là hiểu theo kiểu dân gian là được tha bổng, khoan hồng, hay giảm án… thì phải tìm hiểu yếu tố pháp lý, tình tiết vụ án, xem người phạm tội và mức độ “gây án” như thế nào.

(a). Tội đầu tiên, phạm hạnh bất tịnh:

Câu chuyện thứ nhất, tỳ-kheo Sudinna sau khi xuất gia, mẹ ruột muốn có cháu nối dõi tông đường, bèn ép ông về nhà hành hạnh bất tịnh với người vợ cũ. Lúc này Phật chưa chế giới. Sau đó Phật chế: Tỳ-kheo nào hành pháp dâm dục sẽ phạm ba-la-di.

Câu chuyện thứ hai là tỳ-kheo Bạt-xà Tử (theo luật Pāli nói là số đông các tỳ-kheo người Vajji ở Vesālī).[5] Tỳ-kheo này chán đời sống tịnh hạnh, trở về nhà cùng vợ cũ làm việc bất tịnh. Từ việc này, Phật chế: Tỳ-kheo nào không kham nổi đời sống tỳ-kheo (dubbalyaṃ anāvikatvā), không xả giới mà hành pháp dâm dục, phạm ba-la-di.

Sau khi Phật chế giới như vậy, có tỳ-kheo sống trong rừng, tự nghĩ là Phật cấm hành dâm với người nữ chứ không cấm với súc vật nên đã hành dâm với con vượn cái. Từ nguyên nhân này khiến Phật mới quy chế thêm, cấm quan hệ với người và cả súc sinh. Giới này đến đây đã thành định chế.

Nhưng con người yếu đuối vẫn là kẻ chiến bại trước phiền nãodục vọng, ngoại trừ bậc Thánh trí ra khỏi càn khôn. Câu chuyện cuối cùng một thời xa xưa đã làm kinh động trong cộng đồng Tăng lữ, gây ra sự tranh biện giữa các bộ phái, cũng liên quan đến vấn đề sám hối tội ba-la-di, và từ đây khiến cho các học giả Phật giáo Việt Nam gần đây nhầm lẫn là ba-la-di được sám hối toàn diện. Đó là sự kiện tỳ-kheo Nandi. Thầy này nổi tiếng tu tập thiền định, đi, đứng, nằm, ngồi đều trong trạng thái thiền. Luật kể, một hôm Nandi ngồi thiền trong rừng An-hoàn (andhavana), vì năng lực thiền định của thế tục không thể chiến thắng lửa dục, vừa xả thiền, bị thiên thần ma hóa làm cô gái đẹp dẫn dụ ông đến xác một con ngựa cái chết trong rừng, rồi cô ấy ẩn vào thân con ngựa, lúc này bị lửa dục thiêu đốt Nandi liền hành dâm nơi xác con ngựa.[6] Phật biết Nandi hối hận ăn năn và có tâm tha thiết không muốn bỏ đạo, Ngài mới dạy Tăng yết-ma trao pháp ba-la-di cho học pháp hành của sa-di (dữ học sa-di hành pháp 與學沙彌行法T23n1435_p0003a21║).[7] Đây là một hình thức khai mở cho phép sám hối. Chúng tôi sẽ bàn tiếp ở mục sau.

Luật Tăng-kỳ chép, giới ba-la-di đầu tiên được Phật chế tại thành Vaiśāli, sau giờ cơm trưa, vào ngày 12 nửa tháng thứ năm, mùa đông, sau 5 năm Phật thành đạo.[8]

(b) Tội thứ hai, không cho mà lấy:

Tỳ-kheo Dhaniya tìm cây để làm thất, tự ý chặt một số cây quý của nhà vua trồng, những loại cây này triều đình lưu trữ để tu sửa thành (devagahadārūni nagarapaṭisaṅkhārikāni). Ông là người đầu tiên quy phạm khiến Phật chế giới: tỳ-kheo nào lấy vật không cho, trị giá 5 tiền, hay trên 5 tiền sẽ phạm ba-la-di.[9]

(c) Tội thứ ba, đoạn nhân mạng:

Do các tỳ-kheo tu quán bất tịnh, khởi niệm nhờm tởm thân thể, bèn nhờ tỳ-kheo khác giết mình. Đức Phật mới chế giới, tỳ-kheo không được tự sát, hoặc chính mình giết người khác, hay sai bảo người giết… đều phạm tội ba-la-di.

(d). Tội thứ tư, vọng ngữ nói mình đắc pháp thượng nhân:

Nguyên nhân một thuở nọ, gặp năm mất mùa đói kém, khất thực khó khăn, một số tỳ-kheo bàn nhau tự bịa đặt khen ngợi lẫn nhau cho cư sĩ nghe, nói rằng tỳ-kheo này chứng đắc pháp, tỳ-kheo kia chứng đắc pháp, là đắc pháp của bậc thượng nhân, chỉ cho thiền, giải thoát, chánh định, chánh thọ, tri kiến… (Pāli, Vin. i. 91: uttaramanusadhammo nāma jhānaṃ vimokkho samādhi samāpatti ñāṇadassanaṃ…), mục đích để Phật tử cúng dường. Từ lý do này khiến đức Phật chế giới, tỳ-kheo nào thật không sở tri mà tự xưng tôi chứng đắc pháp thượng nhân… kẻ ấy phạm ba-la-di.

(Còn tiếp)

Mùa an cư Phật lịch 2566.
Cittacakkhu


[1] Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da 1, T23, no. 1442, p. 630c6.

[2] 菩薩戒本1, T24, no. 1501, p. 1110b12.

[3] 阿毘達磨集異門足論 1, T26, no. 1536, p. 370a24.

[4] Tứ phần 22, p. 716a24: Tỳ-kheo-ni với tâm nhiễm ô biết người nam có tâm nhiễm ô, bằng lòng để cho (1) nắm tay, (2) nắm áo, (3) vào chỗ vắng, (4) cùng đứng, (5) cùng nói, (6) cùng đi, (7) thân dựa nhau, (8) hẹn nhau, là phạm ba-la-di.

[5] Vin. iii. 23, sambahulā vesālikā vajjiputtakā bhikkhū.

[6] Cf. Thập tụng 1, T23n1435, p. 2c29; Tứ phần 34, T22n1428, p. 809a8; Ngũ phần 28, T22n2421, tr. 182c10; Tăng-kì 26, T22n1425, p. 441a28.

[7] Thập tụng 1, p. 3b01, 56, p. 418b29, 57, p. 425b15.

[8] 摩訶僧祇律 2, p. 238a22.

[9] Tứ phần 1, p. 573b15; Ngũ phần 1, p. 6a7 v.v…

Xem:
– Phần II
– Phần III

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4385)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4674)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4719)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5880)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3311)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5283)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2948)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4165)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5310)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4279)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3339)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6372)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5362)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4650)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6266)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6121)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3912)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6047)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4650)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4813)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3402)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6298)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4965)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3561)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3494)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5696)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4262)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6017)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5266)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3695)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3780)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3716)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3543)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5380)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4036)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4389)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5835)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3142)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3084)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3890)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4876)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3589)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3070)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4604)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4756)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3473)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4010)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4746)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3592)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3619)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5167)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4180)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3305)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3011)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3049)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3127)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3126)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3495)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4022)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5204)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant